Chương 305-1: Dùng Trí Lấy Đô Đô Trại (thượng) (1)
Đô Đô trại thế núi hùng vĩ, vách đá dốc thẳng đứng, bóng cây che lấp mặt trời, bụi rậm trùng sinh, trải qua mấy ngày liền mưa to cọ rửa, đường hẹp quanh co như ruột dê đã thay diện mạo mới, bụi cỏ bên dưới và đất cát bên trong tán cây vẫn vô cùng lầy lội, đi không bao xa thì giày đã dính toàn bùn lầy, dường như lớp bùn lầy này nặng cả mười cân, khiến người ta cất bước cũng khó khăn.
Công sai nha dịch và cường dân ở các huyện lân cận đều được điều động đến, bao vây tứ phía, mở ra một vành đai cách ly tránh lửa. Lấy Đại Long Đàm, Lượng Thương Khẩu, Quan Âm Lĩnh, Đại Thạch Bàn làm phòng tuyến phía đông, phía tây thì xây Võ Tiểu Nga Mi cách li, phía tây nam là sông Lạc Nhạn, bình phong tự nhiên, phía bắc liền là đường núi hiểm trở nối thông đến đại trại Cửu Ti sơn, dọc đường đi sườn đồi khe sâu không ngừng nối gót, chính giữa hiểm yếu lại là do đại quân Tống Tiểu Ái đóng quân, không cần phái người trông coi.
Quân đội phía trước quan binh không còn giơ cao lá chắn từng phút từng giây phòng bị cạm bẫy hay cơ quan dưới chân, cung nỏ trong lùm cây, đá tảng, lôi thạch gỗ lăn trên vách đỉnh núi, bộ đội tiền phong lúc lên núi khiêng củi gỗ dễ cháy, đến bên rừng rậm dày đặc thì phóng hỏa, quân binh phía sau thanh lý sạch sẽ một bên của mình, ngọn lửa lớn tức thì cuồn cuộn khói lan vào trong rừng sâu.
Ngọn lửa lớn không những phá hỏng những cơ quan ám hố trong rừng, hơn nữa ngọn lửa còn chưa đến nơi, khói lửa mù mịt đã đuổi bọn Man phỉ phải chạy ra ngoài, bọn chúng cùng bọn dã thú kinh hãi chạy ra khỏi rừng rậm, hướng về nơi sâu hơn. Quan binh thì ung dung chậm rãi đuổi theo sau, dọc đường dập tắt tàn lửa, từng bước thận trọng mà tiến, ngọn lửa đã đun chín lớp bùn lầy dưới đất, đi lại không chậm như lúc ban đầu khi đi trong rừng rậm nữa.
Khi gặp phải thế núi hoặc đầm lầy làm cắt ngang ngọn lửa, quan binh liền châm hỏa lần nữa, bọn Man phỉ khi mất đi lợi thế về địa hình hiểm trở, cuối cùng cũng đành trấn thủ ở nơi không có cỏ cây để đốt, cũng khó lòng ứng phó được thế công kích của quan binh, huống hồ khói nồng nặc hun đến mắt họ sưng tấy như quả đào, tầm nhìn khó khăn, cho nên khó lòng hình thành thế trở kích hiệu quả.
Quan binh trước tiên châm lửa công phá Đổng Bố Bá và Hồng Nham, tiếp theo hướng đến công kích điểm quân sự trọng yếu. A Hắc hoang mang vội vàng tổ chức sĩ binh lập thành tuyến phòng bị thứ hai. Đồng thời chống chọi với đám khói mịt mù cố gắng thanh lý đám gỗ lau dễ bốc lửa, tránh đại hỏa lan rộng qua đây, trọng binh đều bố trí ở chính diện để chống địch. Chính vào lúc này, tả hữu hai bên đều có khói lửa truyền đến, quan binh hai phía cùng phát động công kích.
A Hắc kinh hãi, vội vàng gọi A Ngõa, A Quế hai người chia nhau soái lĩnh người ngựa trong trại nghênh giặc ở hai phía hiểm phong tả hữu. Quan binh lấy lửa làm vũ khí, tùy hỏa mà tiến, tình hình chiến sự của hai bên trong làn khói lửa vẫn vô cùng kịch liệt. Tuy nhiên, mất đi sự yểm hộ của rừng rậm, người Man giống như bị con cá chạch trong lò tro, còn quan binh lúc này chẳng còn lo lắng về ám khí cạm bẫy trái phải nên càng chiến càng sung mãn, cuộc chiến tuy diễn ra chậm rãi, nhưng từng bước chắc nịch, kiên quyết tiến vào địa phận quân sự trọng yếu của Man phỉ.
Chiều ngày hôm sau, Dương Lăng cùng Thôi Quý dẫn theo ba mươi sáu ngàn người, nhân lúc quân chủ lực của Man phỉ đang nghênh địch ở chính diện, tả hữu đang chống chọi liền lặng lẽ đánh về phía Ngũ Đô Đô...
Tại Cáp Mỗ Lĩnh Lưu Lãng đang nằm trên một tảng đá thạch lớn có đỉnh bằng phẳng, bốn vách như được gọt dũa, đầu tựa lên cánh tay. Đờ đẫn nhìn về khoảng trời xanh thẳm, trong không trung thoang thoảng đưa đến đám mây đầy sương khói, còn có chút mơ hồ.
Vị Khâm Sai đại nhân này cũng thật lợi hại, nghe nói trước kia Man nhân tác loạn, có rất ít quan binh có thể đánh đến nơi này. Những nơi hiểm trở vô bờ như Bặc Vương sơn, Đông La Lĩnh, Lăng Tiêu thành, chỉ riêng một địa điểm kể trên cũng đủ cản trở quan binh mười năm trời, chẳng trách Man nhân chẳng xem triều đình ra gì. Lần này, tất cả đều bị dẹp bằng rồi, trước núi Cửu Ti chỉ còn lại nơi hiểm yếu là Đô Đô trại này thôi, quân Minh thế như hỏa công, e rằng Đô Đô trại này cũng chẳng chống đỡ được mấy hôm nữa.
Cũng may là đã nghe lời Cát lão ti, kết nối đường dây với triều đình, nếu không lão tử cũng phải chôn thây ở chốn này cùng với Man tử rồi.
Lưu Lãng nhổ bỏ cọng cỏ trong miệng, bò dậy nhìn về phía xa.
Lão tử còn trở về, chính là thủ bị, đường đường là quan thủ bị. Còn hơn tên súc sinh Miêu bách hộ đoạt điền sản ta, hại chết phụ thân ta, nghe nói Oa nhi mẹ hắn vẫn chưa tái giá, vì sợ con trai mình bị con của vệ sở địa phương ức hiếp, dọn đến quê ở. Phụ nữ tốt này, theo ta chẳng được hưởng phúc một ngày.
Nhưng ta vẫn không dám nghe ngóng tung tích của hai mẹ con, quan phủ đang truy nã ta, ả quỷ phụ kia cùng dòm ngó ta gắt gao. Lần này lão tử cũng là đại quan rồi, áo gầm về làng. Quay đầu tìm lại hai mẹ con nàng ta, đám súc sinh dám ức hiếp ta mở mắt mà xem, ha ha...
Lưu Lãng nghĩ đến chuyện ngồi kiệu quan, khua chiêng gõ trống trở về vệ sở, nở mày nở mặt xuất hiện trước đám người đã ức hiếp gã ngày trước, không khỏi ngửa mặt lên trời cười to.
- Ngươi cười cái quái quỷ gì thế! Đại ca nói quan binh lần này rất lợi hại, ở đây cũng phải cẩn trọng một chút, có khi lại có người mò đến đây đấy.
Dưới tảng đá bỗng nhiên có tiếng người phụ nữ lạnh lùng hầm hừ nói.
- Ơ?
Lưu Lãng cúi đầu xuống, chỉ thấy người phụ nữ thân cao không tới một mét rưỡi, trên mặc áo vải bố dưới mặc váy cỏ, đen nhánh béo lùn và đang cầm một cái tam cổ cương xoa bóng loáng, mặt rộng môi dẹt, mắt nhỏ lông mày rậm, giống hệt như con cóc tinh trên tranh vẽ.
Lưu Lãng nhảy xuống từ trên đá tảng, cười hì hì nói:
- Sợ cái gì? Chỉ dựa vào nơi này, có đá có nước, hiểm trở khó leo, quan binh phóng hỏa vô dụng, ta chỉ cần phái mười người ném đá từ trên cao xuống, thì đừng hòng có tên nào có thể bén mảng leo lên, ha hà, đại ca đi rồi à?
Vóc dáng của gã còn cao hơn người phụ nữ kia hai cái đầu hơn, người phụ nữ này chính là thê tử của gã, bào muội của A Đương tên là A Âu. Nàng ta vừa tiễn xong không yên tâm, cố tình chạy lên nhìn A Đương xuống núi.
- Ư, đại ca về trại rồi, những trại khác rất nguy hiểm, đại ca đã điều động hai trăm sĩ dũng từ đại trại đi trợ chiến, sau trại trông rỗng, cho nên chúng ta phải hết sức cẩn trọng trong trận này.
- Hi hi hi, tòa Cáp Mô Lĩnh này của chúng ta, phái ba mươi người là đủ thủ tới mưa gió chẳng thấu rồi, huống hồ có đến một trăm sáu mươi người hơn chứ.
Lưu Lãng chỉ chỉ xuống dưới núi, dưới núi là một dãy đá thạch lởm chởm, chỗ xanh biếc ở giữa là thác suối đầm đầm thanh mát, các khe rãnh nối liền với nhau, trực tiếp tạo thanh dòng chảy hướng, về phía xa.
- Thấy chưa, trong vòng hai dặm không có một cây nào, quan binh muốn xông vào, ta có thể phát hiện từ xa rồi, có gì mà phải sợ? Ngươi đi uống rượu đi, trước đó hai ngày Cát lão ti đã đưa đến bình rượu lâu năm, còn có thịt hươu nấu chín, thơm phất ấy, ta dẫn vài người trông coi ở đây là được rồi.
Gã biết rằng A Âu mê rượu như mạng sống mình, lời này vừa nói ra, A Âu quả nhiên thèm cháy nước miếng, mặt mày hớn hở mà nói:
- Được! Rượu của Cát lão ti mang đến xưa nay đều không tồi, còn ngon và thơm hơn cả rượu chúng ta ủ nữa.
Nàng ta quơ cương xoa rồi xoay người bước đi vài bước, đến bên cửa hang thì bỗng nhiên quay lại nói:
- Này, ngươi có muốn uống một chút hay không?
Lưu Lãng cười khan nói:
- Hì, trời còn chưa tối, nàng uống trước đi, ta canh giữ núi, muộn chút sẽ uống cho đã.
Gương mặt đen đúa của A Âu bỗng đỏ ửng lên, không ngờ lại có chút xấu hổ liếc nhìn gã một cái, lúc này mới lắc mình vào động.
A Âu có sức mạnh to lớn vô cùng, còn dũng mãnh hơn cả nam tử, hơn nữa tửu lượng vô cùng lớn, một khi uống rượu say cũng thích cùng gã điên loan đảo phượng một phen, nghe theo lời gã. Hiểu ý của gã, nên tràn đầy vui vẻ bước vào trong động.
Lưu Lãng nhìn nàng ta vào trong động, sắc mặt trở nên âm trầm:
- Mẹ nó, chốn khỉ ho cò gáy hoang vu ba năm chục ngàn người, cũng dám vung cờ tạo phản chống đối với quan phủ Minh triều, đây chẳng phải là muốn tìm đường chết hay sao? Không phải lão tử nhẫn tâm, tiếp tục chơi với các người, chỉ có thể xong đời mà thôi. Thê tử kết tóc se duyên của ta đó nha. Đấy mới là phụ nữ tốt hiền lương thục đức, có cơ hội cải tà quy chính, đổi lấy chức quan, lão tử không đồng ý, tổ tông ta hắn tức đến nhảy dựng lên đấy.
Nhớ đến thê tử kết tóc dịu dàng yếu đuối, trắng trẻo xinh đẹp như nguyệt nha, Lưu Lãng bỗng chốc nóng ruột một phen, cũng giống như tên tiểu tử trẻ tuổi đang nôn nóng chờ động phòng, hận không thể gắn cánh lập tức bay về quê nhà Bảo Ninh.
Trong lúc vô tình gã nhìn ra xa, đột nhiên một phen, lại định thần nhìn kỹ lại, thì ra cây cao nhất ở phía xa trong rừng có chút khác lạ, Lưu Lãng vẻ mặt căng thẳng, vội vàng trèo lên tảng đá, tay cầm lương bổng nhìn về phía xa, một nam nhân mình mặc áo vải, phong cách người Hán đột ngột chạy đến, nói nhỏ:
- Đại ca, cây ngã rồi, e rằng họ tới rồi.
Người này thân thể cường tráng, diện mạo thật thà, tên là Hà Thực Tại, vốn dĩ là lưu dân vô công rồi nghề, không cách nào kiếm sống đành chạy lên núi, đơn thuần vì miếng cơm manh áo, xin một chỗ an thân lập mệnh. Nhất là không nguyện chống đối với triều đình. Là một trong những tay tâm phúc mà Lưu Lãng lôi kéo được.
Lưu Lãng nhảy khỏi tảng đá, thấp giọng nói:
- Hẳn là không sai được. Sao rồi? Bỏ thuốc vào rượu chưa?
Hà Thực Tại gật gật đầu, cười nói:
- Yên tâm đi đại ca, là Quái Đậu Tử đích thân phối thuốc, người Man đều thích uống rượu, gã đang ở trong động khuyên cùng vài huynh đệ chuốc bọn chúng uống say đấy, chỉ có điều rượu Cát lão ti đua đến hơi ít, tổng cộng mới có năm đàn, không đủ uống nha.
Lưu Lãng cười ha hả nói:
- Bọn chúng đâu có ngu, thật sự để bọn chúng say khướt hết, bọn chúng cũng không chịu đâu, năm đàn vừa dùng, giải khuây đỡ thèm cũng được, chẳng phải bỏ thuốc rồi sao? Quái Đậu Tử cái gì không được, chứ phối thuốc mê tuyệt đối là hữu dụng.
Quái Đậu Tử tuổi tác không nhỏ, sáu mươi tuổi đầu, thân người khòm khòm, vốn dĩ là tên đại đạo có mở một quán rượu tại con đường vùng núi hoang vu, chuyên bỏ thuốc cướp của lừa tiền tài tính mạng người khác, tuổi đã già nên sau này vốn dĩ cũng thôi không làm nữa, chẳng ngờ có một lần trông thấy tay nải hành thương dày cộm, nhất thời động lòng tham, kết quả những người đó đều là người tầm mắt hiểu biết, tên này để lộ sơ hở, bị quan phủ truy nã, nên mới chạy lên núi. Người ta nói lá rụng về cội, giờ lo lắng chết rồi thi thể chôn ở đá lạ quê người hoang vu hẻo lánh, trở thành tâm bệnh lớn nhất của gã, đương nhiên cùng đánh cùng nhịp với Lưu Lãng, cũng tuyệt đối dốc sức cho triều đình.
Màn đêm dần buông xuống, sắc đêm trên núi ập xuống cực nhanh chóng, nhìn xuống núi đã một mảng tối đen như mực, Lưu Lãng vội vã quay vào trong động báo bình an, sau đó mượn cớ tái tuần tra một vòng mà đi ra khỏi động, Quái Đậu Tử cứ như âm hồn vậy bám theo sau.
Lưu Lãng nói nhỏ:
- Thế nào rồi?
Quái Đậu Tử nhỏ giọng nói:
- Man nhân bất kể nam nữ, không một ai là không mê rượu, rượu do Cát lão ti đưa đến không đủ, ta cũng đã bỏ thuốc vào rượu trái cây do Man nhân tự ủ, những Man nhân thủ sơn cũng bị rủ vào uống vái chén, đoán chừng không tới nửa canh giờ nữa, tất cả sẽ lăn ra ngủ, người của chúng ta đều chuẩn bị xong cả rồi.
- Ừ.
Phụ cận cũng có vài tên gác đêm, đều là người Hán do Lưu Lãng lôi kéo được, trong đám người Man cũng có kẻ khiếp sợ muốn hàng, nhưng dù sao cũng không cùng chủng tộc, Lưu Lãng không yên tâm, kế hoạch của bản thân căn bản chưa dám tiết lộ cho đám người đó biết.
Gã tháo cây đuốc trên cây xuống, hướng xuống dưới núi vẽ thành ba vòng tròn, đợi một lúc lâu, mới thấy trong màn đêm bỗng có ánh sáng lóe lên, chỉ lóe một lần rồi không còn thấy bóng dáng nữa, nếu chẳng phải đã nhìn chằm chằm vào vị trí đó, sẽ có người cho rằng mình bị hoa mắt cũng nên.
Lưu Lãng an tâm, nói:
- Thành rồi, hậu trại hôm nay còn điều hai trăm người đi nơi khác chi viện, nơi này bị đánh hạ, quan binh cũng có thể tiến quân thần tốc.
Quái Đậu Tử thấp giọng nói:
- Còn những người Man này thì làm thế nào? Còn thê tử của ngươi nữa?
Lưu Lãng nặng nề nhỏ nước bọt, cắn răng nói:
- Dược tính phát tác liền trói lại hết, Yên đại nhân đã đồng ý không giết họ, lão tử cũng chỉ có thể làm đến mức này, dù sao cũng không thể chịu chết cùng bọn Man tử được. A Âu... nếu chẳng phải ta muốn dừng chân lại đây, liệu ta có đồng ý lấy ả không? Đây con mẹ nó chỉ đơn thuần là kiếm làm phu quân, ban đầu ta không đồng ý, ca ca của nàng ta có thể mổ bụng khoét tim, ăn tươi nuốt sống ta đấy, cứ trói lại hết đi! Kế quay đầu kiếm Ngũ Đô Đô, ta nghĩ cách để cho ca tử nàng ta một con đường sống, cũng xem như báo đáp ân tình của bọn họ.
Quái Đậu Tử gian trá xáo huyệt cười hì hì, xoay người bỏ đi...
Dương Lăng cực kỳ thận trọng, ba ngàn sáu trăm tinh binh tuyển chọn kỹ lưỡng, vẫn chia làm hai bộ, sáu trăm ở trước, tiến vào vùng rừng rậm hai bên của Cáp Mô Lĩnh trước, còn lại ba ngàn người ngựa thì đi theo từ phía xa. Thấy ngọn lửa trên núi quay ba vòng, trong lòng Dương Lăng yên tâm, tức thì phất tay, tướng quân Du Kích Thôi Quý đích thân soái lĩnh ba trăm tên Đặc Chủng binh mặc áo ngắn, giả trang sơ sài, lưng mang đơn đao, trên vai phối thêm xạ tiễn, chậm rãi yên ắng tiến vào trong Cáp Mô Lĩnh.
Đợi khi bọn họ xuống tới núi, người Man trên núi đã bị dược tính phát tác. Tính háo rượu của người Man quả thật không thể tin được, huống hồ vốn dĩ số lượng mười chén, một hai chén chẳng qua là giải khát, cho nên không tên nào là thấy rượu mà không uống, đây cũng là để giữ tính mạng của họ. Nếu không Man binh thủ động bên ngoài, Lưu Lãng ắt phải dùng thủ đoạn diệt trừ hết.
Lúc này đỡ tốn sức lực, Lưu Lãng sai người trói hết Man binh đang ngủ say ngáy khò khò kia quăng vào động, sau đó vội vàng ra cửa động. Đem hơn mười cái thang di động quăng xuống núi, sau đó lại lấy hai cây đuốc ném xuống núi.
Thôi Quý trông thấy tín hiệu, trước tiên phái hơn mười tâm phúc tử sĩ trèo lên, xem xem quả nhiên khống chế được cục diện, lúc này mới phát ra tín hiệu cho người mình mới biết, Thôi Quý yên tâm để toàn bộ binh sĩ lên núi, ba trăm sĩ binh lặng lẽ leo núi Cáp Mô Lĩnh, Lưu Lãng vội vàng lên trước tiếp đón.
Thôi Quý cười hì hì cho gã uống viên thuốc an thần trước:
- Lưu thủ bị, hôm nay cũng nhờ ngươi lập công đầu, tránh phải thương vong quân binh, nói cho ngươi biết, hôm nay lĩnh binh đến công là Khâm Sai Dương đại nhân, ngươi mặt mày rạng rỡ rồi nhé, chốc nữa lấy được Ngũ Đô Đô, chỉ cần ngươi lập thêm một công nữa, Dương đại nhân sẽ có thưởng. Tiểu tử ngươi tiền đồ rộng mở rồi.
Lưu Lãng vừa nghe mừng rỡ, vội vàng bồi cười nói:
- Dương đại nhân đích thân đến? Ai cha cha, đích thân đại nhân lâm trận, đây quả thật là... Quý đại nhân yên tâm, tại hạ nhất định dốc hết sức lực.
Lúc Thôi Quý phát tín hiệu cho người đỉnh núi, Lưu Lãng thì khiêng quần áo người Man cho binh sĩ thay, một canh giờ sau, toàn bộ quan binh đã leo lên đến Cáp Mô Lĩnh, Cáp Mô Lĩnh nho nhỏ đã chật kín người, đâu đâu cũng là binh lính.
A Âu và đám người Man đã tỉnh lại, vừa thấy mình bị trói, lại thấy Lưu Lãng cùng đám người Hán đi đi lại lại, tức thì hiểu ra mọi chuyện, không khỏi chửi bới ầm cả lên.
Lúc này Dương Lăng cũng leo lên núi, Lưu Lãng nghe nói Khâm Sai đã đến, sợ hắn nghe thấy tiếng chửi bới khó nghe của người Man, vội vàng kêu người bịt miệng đám người Man lại, nhưng vừa chặn được vài cái mồm thì Dương Lăng đã bước vào trong động, Thôi Quý và Lưu Lãng ra nghênh đón, giả vờ chẳng thèm nghe thấy tiếng chửi bới inh tai điếc óc kia.
Cũng may thật ra Dương Lăng căn bản chẳng hiểu tiếng Man, hắn thấy Lưu Lãng, trước tiên là khen ngợi một phen, phải biết rằng việc Lưu Lãng chịu hàng, không những đỡ tiêu tốn vài ngàn binh mã, dậy lửa trong núi, đối với quân Minh mà nói cũng đồng dạng tạo thành khó khăn rất lớn, khiến cho bước tiếp theo công đánh sau khi lên núi bị chậm lại.
Mà A Hắc quyết đoán đốn cây chặt rừng, đối với việc tiếp tục công hỏa cũng tạo thành thế bất tiện rất lớn. Đồng thời tuy rằng Tống Tiểu Ái thủ giữa Cửu Ti thành và Đô Đô trại, nhưng ai biết người Man có phải còn mật đạo nào khác? Nếu Lưu Lãng kiên trì thủ Ngũ Đô Đô, Cửu Ti thành lại phái ra viện binh, thắng bại giữa hai bên, nói không chừng sẽ thất bại trong gang tấc, người này thực sự đã lập công lao rất lớn.
Lưu Lãng có được lời khen của đích thân Khâm Sai đại nhân, vui mừng khôn xiết, mọi người nghị luận một phen, liền quyết định đánh Ngũ Đô Đô. Trước tiên, lấy những vật dễ cháy trên Cáp Mô Lĩnh ra châm lửa, quan binh tứ phía hò reo, làm ra vẻ giết chóc kịch liệt, không bao lâu sau, hậu sơn phái ra do thám đuổi đến xem tình hình, người vừa ló mặt, đã bị quan binh chế phục, tức thì Lưu Lãng và mấy thân tín lĩnh theo mười mấy quan binh ăn mặc như người Man mò mẫm đến phía hậu trại.
Giữa hai đỉnh núi Cáp Mô Lĩnh và Ngũ Đô Đô có con lươn hẹp, giữa con lươn bị người đạp đến cọng cỏ sống không nổi, bên phía con lươn cũng có người Man trấn thủ, ngoài ra nếu cứng rắn mà công, trái lại có thể công được, chỉ là khó tránh khỏi tiêu hao thời gian, đồng thời thương vong cũng không nhỏ.
Lưu Lãng lĩnh hơn mười tên xông lên con lươn, dọc đường dùng Man ngữ lớn tiếng kêu la. Man tử đối diện kinh hãi hỏi tình hình, vừa nghe toàn là người quen, không khỏi bỏ cung tên xuống nói:
- Xảy ra chuyện gì vậy?
Lưu Lãng vừa chạy vừa nói:
- Không xong rồi, quan binh tạo thang leo lên. Lại dùng lửa công núi, chúng tôi không chống đỡ nổi, mau mau! Phải lập tức thông qua A Đương, phái binh viện trợ.
Man tử đầu lĩnh nhảy ra từ góc tối, kinh hãi nói:
- Cái gì? Cáp Mô Lĩnh thất thủ rồi ư?
Lưu Lãng lớn tiếng nói:
- Vẫn chưa, nhưng quan binh công phá rất mạnh, để phòng vạn nhất, phải phái binh chi viện ngay. Ngươi là đầu gỗ hả? A Âu đang ở phía trước...
Gã nói xong đã vọt lên trước, giơ tay chém xuống "xoẹt" một tiếng, một cái đầu người đang yên đang lành rơi xuống dưới đất. Làm người Man thất kinh không hiểu đầu đuôi ra sao, những quan binh đi theo cũng giơ cao chém xuống, cung tên bay loạn xạ, chỉ có hai tên Man tử kịp chạy đi vài trượng, cũng bị tên lạnh bắn chết ngay tại chỗ.
Núi này thất thủ. Phía trước chính là hậu trại của Ngũ Đô Đô, quan binh có thể thần tốc mà tiến. Lưu Lãng lại chủ động giết giặc, múa may kỹ xảo, dẫn theo mười mấy người tiến vào trại trước, dùng đao ép A Đương. Dùng tên bắn chết Man binh hộ vệ bên cạnh gã, đại đội quan binh hung hăng mà vào, tứ phía giết chóc Man binh chạy tán loạn, Ngũ Đô Đô thất thủ.
Những Man binh tinh lẹ thì sớm chạy đến Tứ Đô Đô báo tin, lúc quan binh trọng thương đến được Tứ Đô Đô, trên núi cung tiễn như mưa, lôi thạch lăn xuống ầm ầm, bắn chết đè chết một số quan binh, Thôi Quý đuổi đến, sắn tay áo lên chỉ thốt lên hai từ:
- Phóng hỏa!
Ngọn lửa bùng cháy, trên núi liền không còn ai đứng vững, người Man liền đuổi nhau xuống núi. Cản trở quan binh trong thung lũng, nhánh quân tinh nhuệ do Dương Lăng đích thân dẫn đầu, phía sau là Khâm Sai đô chiến, phía trước là Thôi Quý dũng tướng chỉ huy, Lưu Lãng dẫn theo đám người giả dạng Man tử, một tay buộc ký hiệu quan binh trà trộn giao chiến hai bên và không ngừng đánh lén, làm cho người Man đầu óc choáng váng, quan binh chỉ trả một cái giá cực nhỏ, liền công hạ được chủ trại Tứ Đô Đô.
Sơn trại đều làm từ hàng rào, sao có thể chịu được hỏa công? Đây còn do đường núi hiểm trở, quan binh không thể vận chuyển đại pháo lên đây, nếu không chỉ tốn hai pháo, liền bùng nổ thành bình địa, nhưng tướng canh giữ của Tứ Đô Đô sơn A Li rất hiểu mình bại thì có nghĩa là gì, người này hung hãn ác độc thắng A Đương, đích thân giết thê tử, hài nhi, sau đó ép toàn bộ người Man tử thủ sơn trại, triển khai vật lộn với quân Minh về nhà ở, cây cỏ, giếng nước, triển phòng...
Đây là một trận huyết chiến thực thụ, xong hơn ba ngàn chiến sĩ quân Minh, già trẻ lớn bé trên Đô Đô trại cũng chỉ hơn hai ngàn người, mặc dù người Man ôm ý nghĩ liều chết huyết chiến không lùi, cả ngọn núi Tứ Đô Đô vẫn dần rơi vào tay quân Minh.
Dương Lăng ở hậu phương chỉ huy quan binh vận chuyển thương binh, tạm giam tù binh và hàng dân, Thôi Quý phía trước phóng hỏa phóng đến nghiện, dọc đường thấy trại đốt trại, thấy lĩnh đốt lĩnh, hành quân qua nơi nào thì nơi đó khô cằn tàn lụi. A Hắc nghe tin Ngũ Đô Đô và Tứ Đô Đô thất thủ, cũng thấy trong màn đêm mà ánh lửa bùng lên tứ phía, cách biệt lực lượng quá lớn, từ bỏ Tứ Đô Đô, lệnh cho Tam Đô Đô, Nhị Đô Đô trực tiếp rời trại, ngay cả phụ nữ trẻ em lão ấu cũng ném cho quan binh, tập trung toàn bộ chiến lực bảo toàn chủ núi Đại Đô Đô, đồng thời phái người men theo đường nhỏ đến cầu cứu viện binh Cửu Ti thành.
Đến lúc này quan binh công như thần tốc, rạng sáng hôm sau, quân binh bao vây Đại Đô Đô.
Tảng sáng, cỏ cây chẳng có sương sớm thanh lạnh, mà phủ lên tàn tro dơ bẩn đen nghịt. Những quan binh bị thương dưới sự dìu dắt của nhóm sĩ binh lui khỏi chiến trường, tù binh Man binh và phụ nữ cũng bị áp giải đi theo xuống núi. Ngoài núi Yên Cao Tài phụ trách giải quyết hậu trường. Phụ nữ già trẻ lão ấu bị phân tán đi các thôn trại mỗi châu mỗi huyện, mỗi thôn không quá ba năm hộ, được nha sai canh phòng nghiêm ngặt, tránh bọn họ lại tập kết lần nữa, xảy ra biến cố.
Trong núi, tạm thời rơi vào giai đoạn tĩnh lặng. Mấy mươi nghìn đại quân tập trung dưới chân núi Đại Đô Đô, trên núi cũng yên lặng như tờ. Trời đã sáng rồi, nhưng vì mấy hôm trời mưa to, mây mù buổi sáng mờ mịt, phía xa mười trượng cũng chẳng thấy bóng người, lúc này không dễ công núi, quan quân cũng tạm thời tiến vào trạng thái chỉnh đốn và nghỉ ngơi.
Một đêm chưa được nghỉ ngơi, lại bôn ba không ngừng, Dương Lăng cũng có chút mệt mỏi, nhưng những ngày tháng luyện võ không nghỉ, nhất là luyện nội công Võ Đang chính tông, đối với tịnh thân dưỡng tính, cường tráng khí lực, kỳ thật có hiệu quả không thể tả được, cộng thêm không có đích thân tác chiến, xem ra Dương Lăng còn tràn đầy tinh thần hơn sĩ binh nhiều.
Sắp xếp sĩ binh thủ vệ, đồng thời lệnh cho đại bộ phận sĩ binh dựng trại nghỉ ngơi tạm thời, đợi tất cả bận xong, Dương Lăng và đám đông chư tướng tụ họp lại leo lên một dốc núi nhỏ của Đại Đô Đô, sương mù vẫn không tan.
Núi Đại Đô Đô cao chừng bốn năm trăm trượng, mây mù len lỏi khó thấy hình dạng, một tướng lĩnh lo lắng giơ tay thử hướng gió, nói:
- Đại nhân, coi bộ dạng, chốc nữa e rằng lại có mưa, mưa lớn mà xuống, lũ bất ngờ ập đến, quân ta ở dưới chân núi, địch ở trên núi, nếu không nhân cơ hội dầm mưa đánh hạ. Đối với quân ta đại đại bất lợi, theo mạt tướng thấy, không thể nghỉ ngơi, tất phải gắng gượng thêm, tức thì công núi.
Lý Trạch cũng nói:
- Nếu kéo dài chiến sự, e rằng viện quân Cửu Ti thành sẽ đuổi đến, quan trọng nhất là, còn có một tòa Ẩn Bá sơn, nhất là hậu trại Đô Đô, trước Cửu Ti sơn địa hình núi trùng điệp, chúng ta không phái binh vây hãm, nơi đấy có con đường tắt thông từ Cửu Ti thành sang Đô Đô trại, cự ly khá gần, chỉ sợ không lâu sau viện binh sẽ đến. Xem ra chúng ta cùng lắm phái ra hai ngàn người, tình hình bình thường thì không sợ, nhưng nếu mưa lớn mà xuống, cùng khó nói đấy.
Nhìn sắc trời, Dương Lăng cũng cảm thấy lo sợ trời mưa giàn giạ, thời này không có binh khí tượng, ai có thể đoán được thời tiết trong vài ngày trước đó, nhưng loại thời tiết này muốn công núi căn bản là không tưởng, giờ mây mù dày đặc khắp trời, chẳng trông thấy gì cả, người Man chỉ cần ném đá thạch từ cao xuống liền có thể tổn thương người, quan binh làm sao tác chiến?
Địa mạo xung quanh, cùng với con đường tắt giữa Ẩn Bá sơn và Đô Đô trại đã năm sẵn trong tâm trí Dương Lăng rồi, hắn nhắm mắt suy nghĩ giây lát, nói với Lý Sâm:
- Chúng ta còn bao nhiêu lương thực?
Lý Sâm nói:
- Đủ ăn một ngày rưỡi.
Dương Lăng chắp tay bước đi, hỏi:
- Vị nào am hiểu thiên tượng, xem thời tiết này mưa sẽ kéo dài bao lâu?
Người tướng lĩnh đầu tiên đề cập đến mưa to liền chắp tay nói:
- Đại nhân, mạt tướng có am hiểu đôi chút, e rằng lại là một trận mưa to. Tuy nhiên hai ngày trước đó đã có trận mưa to rồi, hơn nữa trận mưa này xem ra cực kỳ lớn, sẽ không mưa quá lâu. Cùng lắm một ngày, cũng là thời gian dài nhất rồi.
Ánh mắt Dương Lăng lóe lên, trầm ngâm nói:
- Mưa lớn mà xuống, lũ đến bất ngờ, Man nhân ở phía xa tại Cửu Ti thành, con đường chính yếu có Tống tổng binh thủ vệ, chúng không đến được đâu. Nhưng điều lo lắng duy nhất chỉ có Ẩn Bá sơn mà thôi. Lúc này nếu công núi, trước tiên là thương vong khó lòng đếm xuể, hơn nữa thời gian công quá lâu, giữa đường mưa to bão bùng, quân ta làm sao xử lý đây? E rằng lúc đó Man nhân thừa cơ hội xuống núi, quân ta sẽ toàn quân tan tác, dưới địa hình hiểm yếu thế này, một khi đại quân tan tác thì...
Hắn đột ngột dừng bước nói:
- Dùng binh ắt phải tùy cơ tất thắng, nhưng quân ta thắng lợi trong tầm tay, lúc này mạo hiểm toàn quân tan tác, thật sự không đáng. Truyền lệnh, tam quân tức thì dời cư chỗ cao bốn bề của Đại Đô Đô, vây kín nó lại, vây nhưng không đánh, cứ đợi cơn mưa to qua đi. Lương thực phải tiết kiệm, vạn nhất thế mưa liên miên thì khó lòng thu xếp, chí ít lương thực phải duy trì hai đến ba hôm nữa.
Hắn ngẫm nghĩ một chút, lại nói:
- Ẩn Bá sơn ở trong núi sâu, vốn muốn lấy hạ Đô Đô trại, tiến binh Cửu Ti sơn rồi mới đối phó nó, nếu nó phái viện binh tự mình nộp mạng, thế thì quá tốt. Lý Trạch, ngươi soái lĩnh binh sĩ lui khỏi Đô Đô trại, lập tức đến Thuyền Thuyền Thạch, người Man ở Ẩn Bá trại nếu muốn viện trợ, tất phải đi qua lối này.
Dương Lăng gọi Lý Trạch đến, vẽ địa hình lên đất, lại tường tận sắp xếp một phen, Lý Trạch nhận lệnh mà đi.
Sau khi Dương Lăng hạ lệnh, đại quân bắt đầu di tản khỏi chỗ cao, chiếm cứ phần lớn sườn núi cao hiểm trở xung quanh. Sau nửa ngày, mưa to tầm tã, dày đặc mịt mùng, giọt mưa vừa to vừa gắt, rớt xuống da thịt đau nhức, nếu người đứng dưới mưa, hai mắt quả thực chẳng thấy gì.
Thấy thiên uy như vậy, quan binh tướng lĩnh không khỏi hoảng sợ biến sắc, nếu buổi sáng mạo hiểm tấn công núi, trong vòng nửa ngày không đánh hạ được Đại Đô Đô, trận mưa này e rằng sẽ giúp bọn người Man, mấy mươi ngàn tinh binh toàn bộ chôn vùi tại chốn này.
Mưa đến lúc hoang hôn thì dịu lại, nhưng theo tiếng bò rống, lũ hội tụ khắp nơi bất ngờ rít gào dưới chân núi, dòng nước xiết vẩn đục, xen lẫn đá vụn, cây ngã ra sức giãy dụa, chảy về phía xa xa.
Tình hình như vậy, ai cũng đừng hòng động thủ đánh giặc, cũng chẳng cần lo lắng người Man trên núi sẽ xuống núi đánh lén, quân Minh liên lục công núi hai ba ngày liền ngả đầu ra ngủ, trái lại được nghỉ ngơi một đêm thật ngon giấc.
Quân Lý Trạch vừa rời khỏi núi, cơn mưa vừa hay ập đến, thấy cảnh tượng này, Lý Trạch không khỏi thầm tán thưởng Dương Lăng thần cơ diệu toán, đối với việc người Man ở Ẩn Bá sơn có đuổi đến chi viện hay không, hắn cũng không dám chắc, nhưng nếu Man tử thật sự đến, phục kích tiêu diệt nhánh quân này. Một là có thể giảm thiểu mối nguy cho Đô Đô trại, hơn nữa quân sinh lực bị diệt, Ẩn Bá trại cũng là vật trong bàn tay, căn bản không cần đánh, lúc đánh Cửu Ti sơn thì tiện thể đánh hạ, cho nên Lý Trạch trái lại không dám trễ nải thời cơ.
Y lệnh cho quân đội đóng quân tại chỗ, tránh khỏi trận mưa to nhất, sau đó dầm mưa xuất phát, cưỡng ép lên đường, cuối cùng đến lúc chạng vạng tối, đến được Thuyền Thuyền Độ.
Thuyền Thuyền Độ cũng không quá hiểm yếu, bởi vì trong núi có nhiều tảng đá to, được cọ rửa ngàn vạn năm trở nên bóng loáng trơn láng, lúc nước cạn thì lộ lên mặt trước, đen kịt nhẵn bóng, nhìn từ xa cũng giống như con thuyền nhỏ, do đó được người ta đặt tên gọi là Thuyền Thuyền Độ.
Nơi này xưng là Độ Khẩu cũng chẳng biết bao nhiêu năm rồi, nhiều lần lũ lớn thay đổi tuyến đường, nước ở đây cũng trở nên cạn đi, đã không còn gọi là Độ Khẩu nữa. Người bình thường cuốn ống quần lên, lội bộ là có thể đi qua. Lúc Lý Trạch dẫn quân đuổi đến, Thuyền Thuyền Độ đã có bộ dạng như vậy, tiếng nước như sấm, mặt nước cao hơn bình thường ba thước, chảy nhanh đến kinh người.
Ly Trạch biết lũ nơi đây khó mà lường trước được, đến nhanh, đi cũng nhanh, nói không chừng đến nửa đêm, thế nước đột ngột hạ xuống, cũng hoặc giả nửa đêm bất chợt thế nước trào dâng, để tránh nước lũ kim sơn. Y đóng quân ở phía đồi cao sau rừng, phía bờ sông thì sắp xếp cảnh vệ dày đặc, lại đích thân đi tuần tra.
Sáng hôm sau, mặt trời vừa mọc, thái dương đỏ ửng cao cao treo lên không trung, mưa đến nửa đêm đã tạnh, lại trải qua cơn lũ nửa đêm, giờ dòng nước dưới chân núi cũng không quá sâu, coi bộ dạng hôm nay thích hợp phóng hỏa, cũng thích hợp giết người.
Trong lều Dương Lăng, sớm sớm đã tụ họp các tướng lĩnh, nghiêm chỉnh ngồi đợi đại nhân hạ lệnh.
Dương Lăng cả người mặc áo bào nhẹ màu trắng, thản nhiên bước từ ngoài vào trong lều. Trong quân võ, người người nghiêm nghị thô kệch, càng thấy hắn môi đỏ răng trắng, phong độ nho nhã.
Dương Lăng thuận tay tra kiếm vào vỏ, đưa cho thị vệ, lại nhận lấy khăn mặt lau lau mồ hôi, cười với các tướng:
- Để các vị chờ lâu rồi, mọi người chỉ cùng dùng bữa, không cần phải nghiêm túc như vậy.
Dương Lăng cười dài ngồi xuống, thở dài một hơi nói:
- Chẳng trách sĩ binh luyện khí thường tìm vùng núi sâu ít ai lui tới, luyện công ở nơi đây, thật sự thiên địa linh khí, có thể tịnh tâm dẹp bỏ tạp niệm, bản quan luyện khí nửa canh giờ, luyện kiếm nửa canh giờ, giờ toàn thân thư thái, tinh thần phấn chấn hẳn nha.
Lý Sâm dở khóc dở cười mà nói:
- Đại nhân, toàn quân đã trận địa sẵn sàng đón quân địch, chúng ta khi nào thì tấn công núi?
Dương Lăng cười nói:
- Hoàng đế còn thiếu binh dói hay sao, gấp làm gì? Thiên theo nhân nguyện, mưa to đã dừng, trước mặt chúng ta hiện tại vẻn vẹn còn lại một tòa Đại Đô Đô mà thôi. Muốn đánh Cửu Ti, còn có ba trở ngại, bản quan đã lệnh Hành Điền, kiểm quân đội nghiêm thủ, chặn đường tháo lui là được. Hữu có Lăng Tiêu sơn, giờ đã là đất triều đình, tả có Đô Đô trại, không cần nửa ngày là có thể đánh hạ, Cửu Ti thành dễ như trở bàn tay, còn lo lắng cái gì?
Lý Sâm giật mình mà nói:
- Dễ như trở bàn tay? Đại nhân, đừng sơ ý khinh địch, sau cơn mưa to, đường núi bùn lầy trơn trượt, cây cối trên núi bị người Man chặt phá gần hết, cỏ cây um tùm lại ướt sũng khó lòng bắt lửa, quân Man dựa thế núi mà thủ, theo ti chức thấy, toàn lực công đoạt, cũng không thể trong hai ngày có thể đánh hạ được.
Dương Lăng cất tiếng cười to, vui sướng mà nói:
- Lý đại nhân của ta, trên núi chỉ còn lại bụi cây thấp bé và cỏ lau, đốt cháy đi nữa cùng khó lòng tạo thành thế uy hiếp cực đại, nếu đổi lại là hôm qua, bản quan còn cảm thấy có thể dùng cả ngày, tổn thất chí ít tám ngàn người ngựa, mới có thể đánh hạ ngọn núi này, nhưng...
Hắn cười dài mà nói:
- Sau cơn mưa này, đường núi trơn trượt, trông có vẻ công núi khó khăn bội phần. Nhưng cỏ cây khó cháy, trái lại lại là một chuyện tốt, chẳng lẽ ngươi không biết công khói còn lợi hại gấp mười lần công hỏa ư?
Lý Sâm ngạc nhiên nói:
- Khói công?
Dương Lăng cười hi hi nói:
- Ăn cơm!
Sau khi mặt trời ló dạng, trời quang xanh thẳm, thế núi rõ ràng vô cùng, nhưng hiện giờ lại cái gì cũng chẳng nhìn thấy rồi, cả ngọn núi bị bao trùm bởi khói bụi mù mịt, so với trận sương mù hôm qua còn dày đặc hơn nhiều, phải nói là dơ tay ra chẳng thấy năm ngón đâu.
Dưới núi Đại Đô Đô, ba mặt bị bao vây, một mặt phóng hỏa, quan binh một mặt thuận gió phải hao phí khí lực rất lớn, thậm chí đem liều đi làm mồi nhử lửa, xong chẳng dễ dàng gì dẫn được những giọt nước tươi mát muốn nhỏ giọt cùng bụi cỏ lau, Dương Lăng còn gọi quan binh chuẩn bị cát đất, vừa thấy nơi nào bắt lửa mạnh, lập tức đắp lên dập tắt, những cây thấp bụi cỏ ướt sũng trở thành từng cụm khói đạn.
Đây là trận chiến cuối cùng, cũng là trận chiến kỳ lạ nhất, quan binh ba mặt nghiêm trận chờ đợi, yên lặng ngưỡng cổ nhìn mây đen bao trùm lấy Đại Đô Đô, một mặt quan binh phóng hỏa, lại không ngừng khống chế thế lửa ủ khói. Không có tiếng giết chóc, không có đao thương trên mặt trận. Dương Lăng cùng mười mấy tướng lĩnh lớn nhỏ ngồi trước lều soái, nhìn cảnh tượng chiến trận kỳ dị.
Thuyền Thuyền Độ, thế nước đã hạ xuống chậm lại, phía rừng đối diện xuất hiện bóng dáng người Man, mười mấy Man binh đứng bên bờ quan sát một trận, sau đó lội nước qua sông, lại vào rừng do thám một phen, sau đó vẫy gọi phía bờ bên kia. Tức thì Man binh như rừng rậm xuất hiện, cầm trúc thương, trường đao mà tranh nhau xông qua.
Ước chừng hơn ba trăm tên Man binh vừa qua sông, một hồi trống trận vang lên, binh lính Lý Trạch hò hét xông ra từ trong rừng rậm, quơ đao thương đón Man binh, tức thì bọn Man binh bị chém ngã một mảng.
Đây chẳng phải do võ lực của quân Minh mạnh hơn người Man, mà do sau khi nước lũ bạo phát thì nước sông lạnh giá vô cùng, nước trông không sâu, mặt sông cũng không rộng, nhưng giống như sự so sánh của Yên Cao Tài, nhìn không chút hiểm nguy, kỳ thật còn đáng sợ hơn cả liệt hỏa. Cho dù là đại hán cường tráng nhất đứng một phút trong nước, hai chân cũng tê liệt hết cảm giác. Nếu không có người nâng đỡ, đừng hòng ra khỏi sông.
Đêm qua Lý Trạch vốn muốn chơi trò nước dìm thất quân, thiết lập cạm bẫy trên sông, nhưng lúc đó thế nước quá xiết, y dẫn một số binh đi thượng du muốn ngăn nước, đá lớn ném xuống nước cũng bị cuốn trôi, có vài tên lính đứng ngay bên vùng nước cạn một lúc cũng bị đông cứng ngắc không động đậy được, may mà phát hiện sớm vội kêu người kéo dậy, Lý Trạch lúc đấy mới phát hiện dòng nước lạnh buốt vô cùng.
Một tướng lĩnh khôn khéo chính là giỏi về phát hiện, đồng thời lợi dụng tất cả lợi thế của mọi thứ. Lý Trạch phát hiện ngăn dòng không khả thi, nhưng nước chảy cực lạnh, người vừa bước ra từ trong nước hai chân sẽ bị tê liệt, nửa ngày trời chẳng thể động đậy được, đây cũng là lợi thế, thế là vội vàng quay về, bày mưu tính kế lại một phen, không ngờ hôm nay quả nhiên công hiệu.
Đám quân Man vừa qua sông thiếu hụt chiến lực, Man tử trong nước còn chưa phát hiện ra mấu chốt vấn đề, liều mạng nhảy xuống nước qua sông viện trợ, những Man tử lội sông đã vượt qua hai trăm người. Trên dòng chảy đứng đầy những người vội vàng cất bước qua sông. Những Man binh xông lên cạn chiến đấu với đám quan binh lợi thế hơn về số lượng, thể lực, nên lâm vào thế suy yếu ngã đổ.
Trong rừng nơi thượng lưu lại lao ra một nhánh quân, chỉ ở phía xa dùng cung tên bắn xuống nước, nước chảy kịch liệt, chảy ra máu tươi và xác người ngã xuống tức thì bị cuốn trôi, mắt thấy thế trận bất lợi, Man binh muốn rời nước lui về bờ bên kia cũng không có đường lui.
Bên cạnh Man tướng ở bờ bên kia chỉ còn lại ba trăm người hơn, thấy cảnh tượng này gã hiển nhiên nên quyết đoán dẫn người thoái lui, lui về Ẩn Bá sơn, nhưng đám lính đã qua sông lại là toàn bộ chủ lực rồi, nếu mất đi đám sĩ binh này, cho dù quay về sơn trại thì đã sao?
Nhưng tình hình hiện tại đem ba trăm mạng người hơn này đẩy lên chiến đấu cũng bất quá là nộp mạng chịu chết mà thôi, Man tướng tiến thoái lưỡng nan, cuối cùng rống lên tuyệt vọng, chuẩn bị từ bỏ sĩ binh đã qua sông quay về sơn trại, sau đó toàn trại đầu về Cửu Ti thành tự bảo toàn. Đáng tiếc, gã giác ngộ quá muộn, chiến sự vừa nổ ra, một nhánh quan binh hai ngàn người đã vòng qua thượng du, chặn đường lui của bọn họ.
Thuyền Thuyên Độ trở thành nơi chôn thây, 1147 chiến sĩ Ẩn Bá sơn thân vùi hiểm địa tứ cố vô thân, toàn bộ bị chôn tại Độ Khâu xưa, Man nhân Đô Đô trại xưa nay chưa từng thấy qua nhánh quân viện trợ, mà Man tử trên núi Ẩn Bá sơn cho đến khi đầu hàng hết mới biết được nhánh quân do mình phái đi đã toàn quân bị diệt.
Lý Trạch vốn không phải người liều lĩnh khinh địch, y cũng biết dựa vào vài ngàn người của bản thân, nếu như xâm nhập vào rừng sâu, một nhánh quân Man tầm vài trăm người liền có thể dễ dàng tiêu diệt bọn họ. Thông thường, một nhánh quân đội thường có người ngựa cắt đuôi, nếu bọn họ còn có nhánh quân thứ hai, rất có thể sẽ vòng đường từ hạ lưu qua sông, vòng qua quân đội của Lý Trạch trực tiếp đánh vào Đô Đô trại hoặc tiêu diệt từ phía sau, cho nên một khi viện binh của Man nhân bị diệt trừ, Lý Trạch tức thì lãnh binh lui thủ Quan Âm Nham, phòng bị dựa vào địa thế hiểm yếu, tránh quân Man lại tái xuất hiện.
Lúc này, trên núi Đại Đô Đô đã bắt đầu thu dọn chiến trường, A Hắc đã tự vẫn, đám người A Ngõa, A Quế bị bắt sống, những Man nhân còn sống thì giơ cao hai tay để quân binh áp giải xuống núi, người nào người nấy đều trở thành hắc nhân. Đại trại trên đỉnh núi đã chìm vào hỏa liệt hừng hực, vùng đất căn cứ to lớn nhất cổ xưa nhất của người Man từ nay đã trở thành một mảng gạch ngói vụn vãi.
Dương Lăng cùng các tướng lĩnh đứng trên đỉnh núi, nhìn đoàn người ngựa nối nhau không dứt di chuyển bên rìa núi, sau đó, không hẹn mà cùng quay đầu nhìn về Cửu Ti thành với đồi núi sâu thẳm, sương mù ngăn cách.
Bình định Đô Chưởng Man phản loạn, đã là cục diện tất thắng, Dương Lăng đem việc bình định phản nghịch lần lượt trình gửi Thục vương phủ và kinh sư.
Trong kinh thỉnh thoảng thường có tin tức gửi tới, Lưu Cẩn đã nắm được đại cục triều chính, đang không ngừng khuếch trương thế lực, đồng thời không ngừng tuyên bố các loại chính lệnh, nghiễm nhiên là người có quyền lực trung khu nhất rồi, đối với việc này Dương Lăng hồn nhiên chẳng thèm để tâm. Hiện giờ Dương Lăng trong triều chẳng phải kẻ ngốc, kém cỏi, hoàn toàn dựa vào thánh sủng, mà những tên hoạn gian quấy nhiễu dậy sóng oán than ở địa phương, chẳng chút căn cơ, đã chẳng còn nằm trong mắt hắn nữa.
Thế lực hiện tại của hắn kỳ thật là đang cùng bước phát triển với Lưu Cẩn, Lưu Cẩn lấy trung khu, còn mạng lưới quan hệ và sức ảnh hưởng của hắn lại phủ khắp các nơi, nhưng cùng lúc hắn cũng chẳng xa lánh hoàng đế, cảm giác thân cận và sự tín nhiệm trong lòng hoàng đế đối với hắn đã giúp thế lực của hắn vững như bàn thạch, chẳng run sợ ai, như vậy đối với việc đối phó Lưu Cẩn trở nên dễ dàng hơn nhiều.
Lúc Dương Lăng trình tấu đến Chính Đức, lại nhân tiện gửi đi những thứ đại diện cho quyền lực và vũ lực của Đô Chưởng Man như tám mươi mặt trống đồng lớn, cờ hiệu thu được của Man nhân, vũ khí và cả vài tên trọng phạm của dân tộc A thị, tất cả đều được đưa lên kinh, dọc đường gióng trống khua chiêng, quốc uy vang dội. Lúc bình Oa và thu phục Malacca, hắn cũng chọn lựa những vật mang đậm tính đại diện như chiến lợi phẩm và đầu đảng áp giải lên kinh, đây là biểu thị sự tôn trọng đối với chính quyền trung ương, cũng là sự tôn trọng đối với hoàng đế Chính Đức.
Có thể tưởng tượng được, một khi những tù nhân và chiến lợi phẩm này được đưa đến, đối với một Chính Đức ham công hiếu chiến, phần ý nghĩa đó còn nhỉnh hơn nhiều so với việc vui chơi cùng ông ta, tặng vài vật hiếm có để lấy lòng ông ta, cả hai việc đều có thể làm cho tiểu hoàng đế vui sướng và cảm thấy thân thiết, tuy hoàng đế ham chơi nhưng lại không phải không có đầu óc. Cứ tiếp tục như thế, trong lòng ông ta, ai là trọng thần có thể dùng vào đại sự triều chính, ai là cận thần chỉ để vui đùa khuây khỏa, đương nhiên sẽ hình thành một khái niệm rõ rệt.
Những hành động xem ra tầm thường nhỏ nhặt này. Đối với việc bình định địa phương, cổ vũ sĩ khí quân tâm, thiết lập quyền uy của hoàng đế Chính Đức, càng có ý nghĩa quan trọng khó mà thành văn. Bình Oa, đã bắt đầu khởi binh từ thời của thái tổ gia gia, đến triều đại của hoàng đế Chính Đức thì được giải quyết triệt để; Đô Chưởng Man lúc thuận lúc phản, hơn trăm năm nay chưa từng dừng lại, đến triều Chính Đức thì được bình định. Phần công cán này khiến cho uy vọng của tiểu hoàng đế vừa mới kế vị đạt đến đỉnh cao.
Đối với võ sự, Dương Lăng chú ý đến là thế như sét đánh, tốc chiến tốc thắng. Còn đối với văn trị, hắn lại cực kỳ cẩn trọng. Trước tiên, hắn không phải là một chính trị gia hợp pháp, đối với quốc kế dân sinh, nhất là dân tình triều đại này, sức sinh trưởng, tình hình phát triển các nơi, cho dù hắn có cố gắng bù đắp thế nào cũng không tài nào đuổi kịp các vị lão thần trong triều.
Lợi thế của hắn ở chỗ hắn hiểu rõ phương hướng phát triển của lịch sử, chỉ cần xác định phương châm đúng đắn, các mục chính sách chi tiết ắt sẽ được tiến hãnh một cách bền vững, cho dù trong quá trình đó có xảy ra sai sót, cùng có thể tạm thời nhân nhượng được. Từ từ điều trị, không thể áp dụng cách cắt da xẻo thịt, làm cho nguyên khí quốc gia chịu tổn thương.
Một số cải cách trong lịch sử, được ghi chép trong sách sử, chỉ vẻn vẹn vài câu nói mà thôi. Mà những câu nói đó, là dùng mười năm, hai mươi năm thậm chí là phải dùng thời gian lâu dài hơn nữa mới có thể hoàn thành, thấy được hiệu quả của nó. Nghĩ mà xem cải cách đương thời, cho dù hệ thống trị có tiên tiến, có hiệu quả hơn nữa, một lệnh cải chính, một sự biến động cải cách chính sách ít nhất cũng cần có thời gian mười năm để vận hành và phát triển. Mới có thể có được sự đồng thuận nhất chí của toàn thể dân chúng, hắn cũng không dám mơ mộng có thể hoàn thành được trong tay hắn, vẻn vẹn thời gian ngắn ngủi có hai ba năm, liền có thể thay đổi bộ mặt ngay được.
Nếu như... nếu như chỉ là một đặc khu, một nơi có thể để hắn độc lập chi phối, mà địa phận tương đối nhỏ, văn hóa lạc hậu, thế lực cản trở của thời cũ tương đối ít, hắn trái lại còn có lòng tin trong thời gian ngắn có thể tạo nên kỳ tích, có điều dù cho có được sự tín nhiệm của hoàng đế Chính Đức, thì liệu ngài có đồng ý hắn làm như vậy không? Dù sao, Chính Đức cũng là người cổ chịu bó buộc bởi quan điểm của thời đại này.
Quan điểm này, thường xuyên nhảy vào đầu hắn, khiến Dương Lăng một phen tim đập tai nóng, nhưng tâm trạng bình phục lại, hắn lại từ bỏ cái quan điểm vớ vẩn ấy: khó lắm, điều chỉnh sai lầm trong quyết sách lịch sử, để con thuyền to lớn này từ từ chuyển hướng vậy, hoặc giả một hai trăm năm sau mới có thể thấy được ý nghĩa của những hành động hôm nay to lớn nhường nào, còn những năm tháng bản thân còn sống, những thay đổi có thể trông thấy e rằng cực kỳ hạn hẹp rồi.
Dương Lăng hiểu nền văn minh muốn phát triển thì cũng phải có quy tắc căn bản, những động thái cải cách hắn làm hoặc giả chỉ là về một hai phương diện, cũng chẳng phải thủ đoạn duy nhất thay đổi sự cường yếu phú bần của quốc gia và cải cách chính sách về mọi mặt. Nhưng sau khi nó được khuếch trương trong diện rộng, sẽ thúc đẩy sự xuất hiện và tiến bộ của kỹ thuật và văn hóa tương quan.
Kỹ thuật mới và văn hóa mới sẽ diễn hóa thêm nhiều lĩnh vực kỹ thuật và tri thức khác nữa, giống như một tòa kim tự tháp từng bước một cải thiện nhu cầu phát triển thiết yếu để hoàn thiện một quốc gia, quá trình này đích thực rất ư dai dẳng, cần có thời gian tương đối lâu dài. Nếu có thể cho hắn một mảnh đất, thì triển trong một phạm vi nhỏ, thế thì tốc độ xây dựng tòa kim tự tháp bé nhỏ đấy sẽ tương đối nhanh chóng, lấy đó làm ví dụ tham khảo, từ đó nghiên cứu và trích lục ra kinh nghiệm cùng tri thức, thúc đẩy việc xây dựng kim tự tháp to lớn.
Nhưng hiện giờ Đại Minh chính là một tòa kim tự tháp vô cùng to lớn, bản thân thì ở trong tòa kim tự tháp khổng lồ này, hơn nữa còn đứng ở vị trí đỉnh ngọn, lại làm sao có thể hy vọng xây dựng một mô hình nhỏ khác bên cạnh nó được chứ?
Vốn dĩ Dương Lăng đã biết rõ, chẳng dám hy vọng lúc hắn còn sống có thể trông thấy được sự biến hóa to lớn thế nào, cũng có thể theo quyền lực ngày một to lớn, thứ hắn có thể chi phối cũng ngày một nhiều, dục vọng và khẩu vị của hắn mới có thể khiến hắn thường xuyên mơ mộng đến việc tăng nhanh tốc độ phát triển của lịch sử. Nhưng tất cả cứ tựa như một giấc mộng đẹp, sau khi ngẫm nghĩ và nhìn lại thực tại, hắn chỉ đành thở dài một phen, chẳng dám làm ra hành động vượt mức quy định, không phù hợp thực tế.
Con người mà, suy nghĩ và dục vọng cứ không ngừng thay đổi, nhớ lúc vừa dọn đến Dương gia, nguyện vọng của hắn chỉ là mong muốn kiếm được một ít tài sản cho Ấu Nương, để nàng có thể sống thư thái một chút, ai ngờ ngày giờ hôm nay, hắn lại đắn đo suy tư về vận mệnh và tương lai của đất nước?
Dương Lăng khẽ cười, vén màn kiệu xe nhìn ra ngoài, vẫn là một mảng xanh um tươi mát, núi rừng trùng điệp, tử đằng quấn quanh, cảnh tượng này chợt nhìn thoáng quá đẹp vô cùng, xem nhiều rồi cũng khiến người ta có chút mệt mỏi.
Trên núi mà có kiệu để ngồi đã khó có, đương nhiên nó cũng chẳng rộng lớn gì, không gian trong kiệu khá nhỏ hẹp, Dương Lăng lại tựa người trở vào, theo đà lắc lư của kiệu, thỏa mãn thở dài:
- Không nghĩ nhiều như vậy nữa, trước mắt đã thấy đến tháng mười rồi, xem ra Trương Thiên Sư đúng, chẳng hiểu chỗ nào bị rò rỉ, hai năm nay sinh mạng ta đại hạn, xem chừng sẽ kéo dài không kỳ hạn thật.
Cho tới thời điểm hiện tại, quân chính Tử Xuyên đều nắm trong tay ta. Đồng hành trước sau trái phải mấy chục nghìn đại quân, ta không tin kẻ nào có thể lấy mạng của ta. Trong quân hiện tại không ít sĩ tốt nhiễm dịch ngã bệnh, nhưng từ khi ta theo Hán Siêu luyện khí công thượng thừa gia truyền, cơ thể cũng ngày một rắn chắc hơn, chẳng còn hở chút là ngã bệnh, coi bộ cũng thật do ta buồn lo vô cớ thôi.
Hài nhi đã sớm đầy tháng rồi, cũng không biết mập ốm thế nào, trông có xinh hay không... ừm... sau khi hồi kinh phải đi đón hai mẹ con Liên Nhi đến, cùng thê tử hài nhi hưởng chút phúc thanh tịnh mới được! Si nhi ái nữ, kiều thê mỹ thiếp... hì hì...
Dương Lăng nuốt ngụm nước miếng, vui thích mà nghĩ:
- Đợi ta kéo ngã Lưu đại quan nhân, dứt khoát làm một hầu gia an nhàn, những cái ta biết đều nói ra cả rồi, những cái cần làm đều đã làm, cũng nên để bản thân hoàng đế tự mình lao tâm lao lực, muốn cường tranh thêm nhiều việc nữa, cũng chưa hẳn đã là việc tốt.
- Đại nhân, đến hành viên huyện Nhung rồi!
- Hả?
Dương Lăng tỉnh dậy từ trong ảo tưởng, kiệu dừng lại, có người vén màn kiệu lên, Dương Lăng cúi người bước ra từ trong kiệu. Trông thấy những quan viên quân chính địa phương đều đứng hầu ở bên ngoài, Chu Nhượng Cận, Phong Tham Tán, Tô Ngự Sử còn có Lý Sâm, Tống Tiểu Ái đều đến nghênh đón.
Dương Lăng mỉm cười ra gặp các vị quan nhân, cùng nhau vào thành, đi đến huyện nha tạm thời đổi thành hành dinh Khâm Sai. Lão gia huyện đại đáng thương bị chen đến tít phía sau, trái lại cũng dễ bề cho y thu xếp lên rượu và thức ăn.
Dương Lăng đơn giản dùng ít cơm canh, cười hỏi Chu Nhượng Cận:
- Nhị vương tử, chiến sự của huyện Nhung bên này đã chuẩn bị đến đâu rồi?
Sau khi đánh hạ Đô Đô trại thì Dương Lăng liền hạ lệnh dời quân đến huyện Nhung, bắt tay vào công tác chuẩn bị các mục tác chiến với Cửu Ti thành, còn hắn thì ở lại chỗ cũ, yểm trợ Yên Cao Tài lo liệu hậu trường. Củng cố khu chiếm lĩnh, tiêu diệt tất cả mầm mống. Đây là phần quan trọng nhất để tránh tình trạng phản pháo lặp lại, kiến thiết luôn luôn khó hơn phá hoại mà.
Đô Đô trại là đại bản doanh của Man nhân, thế lực của họ ở đây phải nói là thâm căn cố đế, một mặt quan phủ muốn đánh tan mô hình bộ tộc vốn có của họ, thủ tiêu thổ ty tạo phản, thống trị tù trưởng, sắp xếp lưu quan, đặt để quân doanh, kiến lập cường dân, đồng thời còn phải bãi trừ dân chúng chịu qua áp bức của các bộ tộc khác báo thù trả đũa. Đem những người Man quy thuận triều đình cùng với nam nữ lão ấu bắt được phân tán đi khắp các huyện. Những công việc này, cần phải thao tác quá nhiều. Yên Cao Tài còn chưa chính thức nhận lệnh, có Dương Lăng ngồi trấn thủ nên các quan viên bên dưới mới không dám lơ là, do đó Dương Lăng đến muộn hơn các quan viên khác nửa tháng.
Dương Lăng dụng binh, lập được công lớn diệt phỉ hơn trăm năm nay chưa từng có, những quan viên đất Thục hiện giờ đều tỏ ra khâm phục vạn phần đối với hắn, nhất là quả quyết do Dương Lăng đưa ra, không những không xuất hiện biểu hiện lo lắng quấy rối của bọn họ, bá tính bản địa càng trở nên ủng hộ và tín nhiệm quan phủ hơn.
Lúc ở thành Tự Châu khi bọn họ đưa lương thực đến còn bị bá tính thóa mạ, nhưng khi chỉ huy bọn họ đến huyện Nhung, bá tính lại nồng nhiệt hoan nghênh, nhất là những thổ ty tộc Tàng Miêu Khương Di, không những không còn giở trò phá hoại, hơn nữa còn thay những tàn binh già yếu, đổi lại lang binh dũng mãnh thiện chiến hiệp trợ triều đình diệt phỉ, những tù trưởng lĩnh binh được phái đi cũng không còn dương oai diễu võ, đối với các quan binh còn có chút khách sáo, những biểu hiện chuyển biến này khiến cho phụ mẫu quan lại xưa nay thờ phụng chính sách bình định cảm thấy rất ư xúc động, càng tin phục Dương Lăng hơn.
Vừa nghe Dương Lăng hỏi, Phong Tham Chính lập tức hưng phấn, đáp lời:
- Đại nhân yên tâm, chiếu theo lời căn dặn của ngài, việc chuẩn bị cho chiến sự đã được an bài ổn thỏa. Tri phủ thành đô Ngưu Đại Lực, Tri Châu Tự Châu Phùng Kiến Xuân, còn có Đồng Tri thành đô Ngũ Văn Định phụ trách quân nhu, nhiều quân đội tụ tập tại nơi này như vậy, không phải là thiếu lương thực, mà là lương thực không thể vận chuyển vào trong được, trước kia nguyên nhân đánh thua trận, một là do sơn trại hiểm trở, một là do lương vận gian nan.
Giờ thì tốt rồi, quan phủ mộ binh dân dịch, dọc đường lại có nhiều bá tính, nhất là những vùng đã chịu áp bức, có được đất đai, toàn bộ gia đinh còn chạy đến chung tay giúp đỡ, chỉ vẻn vẹn nửa ngày trời, đục thông hai đường nước Toản Than và Mộc Than, lương thực có thể vận chuyển trực tiếp từ Nam Quảng đến đây.
Tô Ngự Sử cũng vui vẻ nói:
- Sáu đại tộc lần nữa phái lang binh, ước chừng ba nghìn người, ha ha ha, hiện giờ bọn họ đóng quân tại đại doanh, chuyên ở trong rừng rậm ngăn chặn những bộ tộc người Man nhỏ lẻ như Mộc Ái, Cao Huyện, Đốc Liên, những người Man đó số lượng ít, đánh trận không giỏi, nhưng lại phá hoại việc vận lương, chỉ hai ba người là có thể khiến đội lương thực không thể động đậy nửa ngày trời, có những lang binh tinh thông rừng rậm trợ chiến, cũng giúp chúng ta một vấn đề lớn.
Dương Lăng nghe xong mỉm cười, dời mắt nhìn sang Tống Tiểu Ái. Hôn sự của Tống Tiểu Ái đã định, tinh thần khí chất đó cũng khác hẳn so với bình thường, trong đuôi mày khóe mắt đều hiển hiện niềm vui kỳ lạ, đôi mắt cong cong cứ như đang mỉm cười.
Nàng ta thấy Dương Lăng nhìn mình, vội trả lời:
- Chiến thuật tâm lý mà đại nhân nói, mạt tướng cũng đã phái người Man thuần phục trà trộn vào trong núi, tứ phía truyền tin. Người Man trên núi hiện giờ đã có khá nhiều người đóng vai Gia Cát Võ Hầu tái thế, những tên này trời không sợ đất không sợ, chỉ sợ Khổng Minh, giờ chưa động binh thì đã có hơn hai ngàn đào binh liên tục chạy ra khỏi núi, tuy không có vị Man tướng nào đầu hàng, nhưng nghe nói nhiều kẻ cũng đã nơm nớp lo sợ, đắn đo do dự.
Mọi người nghe xong đều cất tiếng cười vang, chiêu này đối với người bên ngoài chắc không hiệu quả, nhưng đối phó với những người Man chưa khai hóa thì còn lợi hại hơn cả đao thương. Người Man lên núi cũng chẳng phải có ý lừa gạt ai, mà do Tống Tiểu Ái sai người vẽ rồng vẽ phượng giảng đạo một phen, khiến bọn họ tin rằng Dương Lăng chính là Gia Cát Võ Hầu tái thế có khả năng bách chiến bách thắng, thần cơ diệu toán, sau đó lại thả đám người Man bị tẩy não này đi lên núi làm trò tuyên truyền, người Man không bị mắc lừa mới là chuyện lạ.
Dương Lăng cười nói:
- Bình định Tự Châu, tất cả những mưu kế sách lược này, là nhờ vào sức lực mưu trí của mọi người cùng nghĩ cách, kỳ thật nào phải bản quan tinh thông như vậy, có thể một tay bao biện hết tất thảy? Tuy nhiên, bên phía hoàng thượng, công lao của mọi người bản quan sẽ không giành đâu, A Đại này chẳng có cơ hội xuống đại vương chỉ gì, để các vị có thể thăng quan tiến chức, ta chẳng lẽ còn dày mặt đi cướp công lao của mọi người tính lên đầu ta, như vậy mới dọa được người hay sao?
Mọi người nghe xong cả phòng cười vang, chỉ có Chu Nhượng Cận đôi mày nhíu chặt, vẻ mặt không chút vui vẻ, Dương Lăng không khỏi thu lại nụ cười, vội vàng hỏi lời:
- Nhị vương tử, có tâm sự gì chăng?
Chu Nhượng Cận nhìn hắn và chúng quan viên liếc mắt một cái, khẽ thở dài:
- Đại nhân, đại quân triều đình càng thần dũng, tại hạ càng lo lắng... tuy rằng người Man ngu dốt, nhưng hắn cũng sẽ nhìn ra, chỉ dựa vào một tòa Cửu Ti thành, bọn họ sẽ không tài nào chống lại triều đình được. Bảng cáo thị chiêu hàng gửi lên núi đã ba lần rồi. Nhưng A Đại đến nay vẫn chẳng thèm để tâm, lúc đầu gã chịu lấy tính mạng vương huynh ra ép chúng ta rời khỏi Tự Châu, chẳng lẽ bây giờ lại không thử dùng vương huynh để ép chúng ta lui binh hay sao? Ta e rằng...
Vừa dứt lời thì sắc mặt mọi người thức thì nghiêm nghị, vẻ mặt cười hoàn toàn biến mất. Dương Lăng trầm ngâm một hồi lâu, nhẹ nhàng nói:
- Là bổn quan đánh giá cao trí tuệ của đám người Man kia, ta vốn cho rằng bọn chúng sẽ không dám làm hại tính mạng thế tử, e rằng thế tử lành ít dữ nhiều rồi, đây là lỗi của bổn quan.
Chu Nhượng Cận vội cười nói:
- Đại nhân đừng tự trách, ban đầu Yên đại nhân trách cứ là phải, giang sơn xã tắc Đại Minh ta không cho phép xâm phạm, cho dù Hoàng đế bị bắt, cũng chưa từng cúi đầu trước Man nhân, há có thể vì tính mạng Vương huynh, cá nhân một người, mà lấy triều đình ra để trao đổi.
Gã do dự một lúc, bất chợt đứng dậy nói:
- Tại hạ chỉ còn một chuyện thỉnh cầu đại nhân, vẫn mong Khâm sai đại nhân có thể cho phép!
Dương Lăng vô cùng bất ngờ, vội vàng đứng dậy nói:
- Nhị vương tử chớ nên khách khí, có chuyện mời nói!
Chu Nhượng Cận nói:
- Lần này xuất binh Cửu Ti Thành, xin Đại nhân nhất định cho tại hạ lĩnh một đường binh, thân trảm địch tù, báo thù cho Vương huynh!
Dương Lăng còn chưa lên tiếng, chúng quan viên đã ầm ầm khuyên can: Đây không phải chuyện đùa nha? Thế tử coi bộ chết chắc rồi, trước mắt Chu Nhượng Cận là người kế thừa duy nhất của Thục Vương, trên chiến trường đao thương vô nhãn, nếu chẳng may có tốt xấu gì, đời của Thục Vương sẽ không còn người nối dõi nữa.
Mọi người không ngừng khuyên can, Chu Nhượng Cận nghiêm nghị nói:
- Chư vị đại nhân không cần khuyên nữa, về công, bình định loạn tặc Ba Thục, Nhượng Cận thân là Vương Tử Ba Thục nghĩa bất dung từ! Về tư, Vương huynh bị hại, thân là huynh đệ đồng bào, vì huynh báo thù, Nhượng Cận lại tiếc rẻ thân này ư? Huống chi Chu Nhượng Cận ta chẳng phải thư sinh nhu nhược, ta luyện đầy mình võ nghệ, đối phó với người Man, còn thừa sức nữa là khác!
Mọi người thấy thái độ gã kiên quyết, không thể khuyên răn, liền lần lượt dùng ánh mắt cầu cứu Dương Lăng. Dương Lăng suy nghĩ một lúc, trong lòng bất chợt có tính toán: bảo gã theo cũng không sao, chỉ cần không để gã lên chiến trường là được. Thế tử mười phần hết tám chín phần đã chết rồi, để gã lập phần công lao, tiến lên làm Thế tử Thục Vương cũng là chuyện đương nhiên phải vậy.
Nghĩ đến đây, Dương Lăng mỉm cười gật đầu nói:
- Được! Đất Ba Thục, vốn dĩ là Thục Vương trị vì, thế thì để Nhị Vương Tử thay phụ thân bình định Cửu Ti Thành đi!
Cửu Ti Thành nằm ở sâu trong rừng núi Cửu Ti cách huyện Tây Nam hơn trăm dặm, núi cao đồi dốc, nham treo vách đứng, rừng núi sâu rộng, cỏ dại um tùm che khuất lối, địa hình vô cùng hiểm ác. Man nhân dựa vào núi xưng Vương, xây dựng thành trì nơi đây. Nghe nói sau khi xây xong tòa thành, không biết to lớn nhường nào, dùng dây thừng đo đạc, dây thừng dùng hết, chỉ mới vây được một nửa, nghĩ đi nghĩ lại, quyết định đổi dùng tơ tằm đo lại từ đầu, vẻn vẹn dùng hết chín lượng tơ tằm. Cho nên người Man mới đặt tên cho tòa thành là Cửu Ti Thành, còn có người thì nói do Đô Chưởng Man có chín cái họ, nên xưng là Cửu Ti Thành.
Cửu Ti Thành lương nhiều tướng rộng, dễ thủ khó công, đều nói người Man gian khổ, nhưng nghe nói trong Cửu Ti Thành bò dê thành đàn, lương thực thành núi, trên núi rộng lớn tùy ý chăn thả, săn bắn. Còn mở rộng đất đai màu mỡ, mảnh đất này nếu vây mà không công, nó có thể thủ thành cả trăm năm cũng không thành vấn đề.
Trong Cửu Ti Thành có người Man A Đại tự xưng Đại Vương xây dựng vương cung, trước có Đại Đô Môn, Tiểu Đô Môn, qua khỏi đại vương cung, sau còn có kho và tây quan khẩu Đại Vương. Từ khi Lăng Tiểu Thành và Đô Đô Trại liên tục thất thủ. A Đại ở Cửu Ti Thành đã rộng rãi cho đào chiến hào công sự che chắn, phòng vệ nghiêm ngặt, gã và bào đệ A Nhị, còn có tướng Man thân tín Phương Tam trấn thủ, hiệu xưng là tam hùng tướng Đô Chưởng Man.
Muốn vào trong Cửu Ti Thành, chính giữa có trường cốc dài, nếu quân đội tiến vào trong cốc, hai bên người Man dùng đá nham tấn công, không đường thoái lui. Dương Lăng đến huyện Nhung, liền bắt đầu tổ chức người ngựa thử công núi, thậm chí chế xe một bánh có gỗ xéo trên đỉnh làm dù, yểm hộ quân binh lên núi, nhưng những thứ này đều không thể ứng phó được nếu người Man ném từ trên cao xuống những tảng đá nham thạch lớn. Liên tục công phá vài hôm, tổn thất thảm thương, mắt thấy cách này không ổn, Dương Lăng tạm thời dừng công, đích thân lên núi do thám địa hình.
Dương Lăng đứng ở một chỗ trên đỉnh núi cao, trầm ngâm lặng im nhìn mây mù lách qua những ngọn núi cao hiểm trở. Một lúc sau, hắn mới ngồi xuống một tảng đá lớn, chau mày nói:
- Núi này hung hiểm, không dễ bắt lửa. Miễn cưỡng tấn công, khó là khó ở hai vách Cửu Ti vừa hẹp vừa dài, không biết phải tổn hao bao nhiêu người ngựa mới có thể công được vào trong. Nếu như vậy mà không công, lương thảo trên núi nghèo nàn, bốn mùa lại khí hậu khó lường, đại quân không nơi đóng quân đã đành, chỉ riêng về dầm mưa chướng sương, đã có thể gây ra ôn dịch cho quân lính, chúng ta một đường đến đây, không có khó khăn nào là không kiên trì vượt qua,chẳng lẽ chỉ còn cửa ải cuối cùng này, lại thật sự không thể qua nổi hay sao?
Tống Tiểu Ái nói:
- Đúng đấy, sĩ binh của Đô Chưởng Man ở Cửu Ti Thành tính hết cũng không quá bốn nghìn người, nếu thật sự đánh nhau thì chẳng phải đối thủ của bảy vạn đại quân triều đình, vấn đề là làm sao có thể đánh đến dưới chân Cửu Ti Thành, hai vách núi này thật cực chẳng đã muốn đào nó lên ấy?
Dương Lăng nghe xong gượng cười nói, lời nói ba hoa hùng hồn lúc trước, chẳng ngờ Tống Tiểu Ái lại ghi nhớ trong lòng, nhưng xem hai đỉnh vách núi này, cho dù dùng thuốc nổ thời hiện đại để công phá, muốn nổ bằng nó cũng là chuyện khó, huống hồ là nói đến việc đào rỗng nó.
Chính vào lúc này, Chu Nhượng Cận dẫn theo một người hàm không có râu, mặt mày đỏ ửng leo từ dưới núi lên. Người đó thân thủ cường tráng, leo núi như bay, Chu Nhượng Cận cũng mặt không đỏ hơi thở không gấp, xem ra lời nói hôm đấy của gã là thật, quả nhiên tinh thông một mình võ nghệ đấy nhá.
Chu Nhượng Cận thấy Dương Lăng, chắp tay nói:
- Đại nhân, ngài đã nghĩ ra kế sách phá núi chưa?
Dương Lăng đứng dậy nghênh đón, lắc đầu nói:
- Khó, Cửu Ti Thành này giống y như một quả óc chó, chính là vỏ ngoài cứng cáp khó công phá, nếu công được vào trong thì trái lại chẳng còn gì đáng ngại nữa, Đông Doanh quan hôm qua lại phái người đưa chiếu hàng cho A Đại, A Đại chẳng có nửa lời hồi đáp, trái lại còn gia tăng thủ quân ở hai vách núi, coi bộ dạng là ngoan cố chống đỡ đến cùng.
Chu Nhượng Cận hiểu rõ ý của Dương Lăng, thần sắc không khỏi buồn bã, một lúc lâu sau mới chấn tỉnh lại tinh thần nói:
- Đại nhân, đây là vị bạn hữu tốt của ta, một vị huynh đệ tộc Di, hắn tên Cát Phan. Hắn và người Man có làm ăn qua lại, từng đuổi bò dê để đổi lấy trống đồng chế tác của người Man, nhiều lần đi qua con đường này, hắn nói với ta, ngoại trừ con đường này, trong núi còn có một con đường tắt có thể đến được dưới chân Cửu Ti Thành, không biết có giúp ích gì cho Đại nhân hay không?
Dương Lăng tinh thần phấn chấn, vội vàng mời Cát Phan ngồi, tường tận gặn hỏi tình hình. Tình hình phát triển như hiện nay, phụ thân Cát Phan xem xét thời thế, sức ủng hộ triều đình cũng gia tăng, Cát Phan Ngõa Tây vốn là nể tình bằng hữu, mới theo y đến đây, giờ trái lại thật lòng thật dạ muốn giúp đỡ quan binh, vì tộc lập hạ phần công lao.
Tức thì Cát Phan Ngõa Tây tường tận kể lại phát hiện của mình khi lên núi, cuối cùng nói:
- Con đường tắt này cũng ở trong cốc, trống đồng người Man chế tác rất tinh xảo, là bảo vật cực đắt tiền trong chư tộc Tây Nam, muốn đổi một cái trống đồng thượng hạng thì phải dùng nghìn con bò, ta từng đuổi một số lượng lớn dê bò vào núi để giao dịch, bò dê không thuận đường, chạy lung tung trong bụi cỏ, mới giúp ta phát hiện ra con đường tắt này.
Tuy nhiên con đường này khá kín đáo, từ trên đỉnh vách núi khó có thể phát hiện có người ra vào, nhưng cực kỳ khó đi. E rằng hai ba trăm người đi qua, thì khó tránh khỏi để lộ hành tung, vào trong rồi cũng không giành được quan ải.
Dương Lăng nghe xong cảm thấy hơi nhụt chí, nhưng dù sao cũng là một tia hy vọng, hắn để Cát Phan Ngõa Tây cầm lấy cục đá, vẽ ra bản đồ trên mặt đất, giảng giải qua lại vài lần, cho đến khi nhớ chết địa hình trong lòng. Lúc này mới gật gật đầu, suy ngẫm một lúc lại chậm rãi lắc đầu.
Chu Nhượng Cận thấy hắn vẫn chưa nghĩ ra cách, liền nói:
- Ta và huynh đệ Cát Phan xuống núi đi dạo, xem xem có thể nghĩ ra cách nào khác hay không.
- Được, các người dẫn thêm người đi, phải thật cẩn thật đấy.
Dương Lăng tiễn họ đi, lại quay về ngồi vào tảng đá. Nâng cằm nhìn sơn cốc một cách đờ đẩn: dựa vào đường chính lên núi, không thể được! từ con đường nhỏ mà vào, không bị phát hiện, nhưng số lượng có hạn, Man tử thủ quan chí ít cũng phải nghìn người. Tập kích bất ngờ cũng khó đánh hạ, hai bên hiểm yếu, lại không thể trở mình cắt bỏ hơn nghìn quân Man ở hai vách núi giúp quân ta đi qua, ôi dào! Cũng không xong! Không được không được! Ai dà…
Dương Lăng mặt mày nhăn nhó thở dài, vừa nghiêng đầu bỗng nhiên nhìn thấy Tống Tiểu Ái ngồi xổm bên cạnh hắn. Cũng hai tay nâng cằm, một cặp mắt to tròn cứ đăm đăm nhìn về sơn cốc xuất thần. hai tay nàng kéo mặt và môi xuống có chút biến dạng, trông thật trẻ con.
Dương Lăng là nghĩ chuyện tâm sự nghĩ đến xuất thần, nhưng rõ ràng có thể trông thấy, Tống Tiểu Ái chẳng có việc gì, ngồi ở đó chán đến nỗi xuất thần, Dương Lăng không khỏi phì cười một cái.
- Hả?
Tống Tiểu Ái nheo mắt trông suốt hiếu kỳ nhìn hắn một cái.
Dương Lăng cười nói:
- Nàng cảm thấy ở đây không có ý nghĩa, thì đi ra ngoài đi dạo đi, bên cạnh ta có nhiều binh mã như vậy, cũng chẳng cần nàng ở cùng, Hán Siêu đâu?
Tống Tiểu Ái phủi mông, nhảy xuống tảng đá cười hì hì nói:
- Ta không có người nữa, từ lúc Lý Phó Soái đến, binh mã của ta hoàn toàn giao qua đó, tinh binh do bản thân ta dẫn theo thì vượt núi vượt rừng, cho nên để Tiểu Ngũ chia làm trăm mười tổ, tất cả đều dẫn đi dò thám tình hình. Giờ ta một mình, có thể đi đâu nào?
Trong lòng Dương Lăng chợt sáng lên, đột ngột nhảy phắt xuống nham thạch, nhìn chằm chằm Tống Tiểu Ái, hai mắt sáng rỡ, từng bước áp sát cười nói:
- Nàng vừa mới nói gì? Người của nàng chia làm trăm mười tổ tất cả đều phái đi hết, nàng không còn người mà dùng ư?
- Đây…đây chẳng phải là nụ cười dâm đãng háo sắc đấy ư?
Tống Tiểu Ái có chút nổi cáu, nàng tim đập nhanh giọng run run hỏi:
- Phải…đúng đúng vậy, Đại nhân người muốn làm gì?
Nàng vừa lùi vừa nói, tay thì không biết cầm vào cán đao từ lúc nào.
- Ha ha ha ha…
Trên đỉnh núi truyền đến tiếng cười càn rỡ của Dương Lăng.
Tiếng cười vọng lại từ các dãy núi, cũng thật giống tiếng sói tru…
Năm ngày sau, Tham Tướng Lý Trạch soái lĩnh quân đội rời khỏi huyện Nhung, binh ra khỏi Ấn Bá Sơn, vòng qua phía tây cắt Lã Cáo, Ô Mông, Thừa Nga; Tham tướng Lâm Anh Viễn bộ binh ra khỏi cốc bạo, đuổi đến Nam bộ đóng quân Đương Mang, Việt Tây. Tướng quân du kích Thôi Quý lui từ Đông Bắc xuống núi Cửu Ti, Tây Bắc do Sử Tiêu Hoành chỉ huy binh lính xuất phát; Kim Kê Lĩnh thì giao cho sáu tộc lang binh đóng quân. Các bộ phận binh lính Dương Lăng, Lý Sâm, Tống Tiểu Ái trời tối vượt núi, năm đường đại quân, nối liền như sâu chuỗi, chậm nhanh tương ứng, hỗ trợ lẫn nhau, phối hợp chung sức, làm ra tư thế có thể tấn công bất kỳ hướng nào.
Tam hùng tướng Đô Chưởng Man cũng điều binh khiển tướng, phân chia đóng quân ở các nơi hiểm yếu, làm ra bộ dạng phòng địch ở ngoài Cửu Ti Sơn. Các đường binh mã đi đường xa xôi, còn chưa công đến phụ cận Cửu Ti Thành, người làm chủ công như Dương Lăng đã giao phong với quân Man, Thủ Bị Cận Quốc Anh lĩnh người ngựa bản bộ làm tiên phong, gắng sức công núi, hết mình ác chiến với Man binh.
Sau khi quan binh lui khỏi lại rơi vào hơn mười đạo hàng rào trong tay Man nhân, sau đó lại rơi trở lại vào tay quan binh, quân Man lần nữa lui vào thủ hai vách Cửu Ti Sơn, quan binh công núi, Man phỉ dùng cường cung nỏ cứng, vạn tên cùng bắn, lẫm liệt như điện rơi rớt không ngừng. Quan binh lại đổi xe dù gỗ, Man phỉ đổi đá lớn, gỗ cháy để trấn áp, quan binh lại lui về, song phương một lần nữa rơi vào trạng thái giằng co.
Lúc này các đường binh mã tiến công đường vòng đã lần lượt đến gần Cửu Ti Sơn, Cửu Ti Thành cố gắng xuất tinh binh, phân thủ các đường, lấy một chọi trăm, quan binh tiến thêm cũng phải trả giá bằng nhiều thi thể rãi rác, thương vong cực lớn, quan binh lại chìm vào giai đoạn bị vây hãm khó tiến công, A Đại Vương thở phào một hơi, nhưng vẫn không dám khinh suất, các đường quân thủ sơn nghiêm nghị đợi lệnh, hai bên mệt mỏi bất kham.
Hai ngày nay, bỗng dưng lại trời mưa, sau cơn mưa dầm sương dày đặc, A Đại biết quan binh không thích nghi được với thời tiết, chỉ cần kiên trì thêm hai ngày, quan binh ắt sẽ lui binh, thế là phái người đưa rượu thịt cho quân coi giữ tại các cửa ải hiểm yếu. Khao tam quân, trông có vẻ như phần thắng nắm chắc trong tay.
Mưa xuống, quả nhiên quan binh lui đi một ít, trên nơi cao nhất của doanh trại, liên tiếp hai ngày liền không có cuộc phát động tấn công nào.
Trong đêm đấy, mưa dầm mù mịt. Dương Lăng chọn ra bảy trăm dũng sĩ từ trong lang quân của Tống Tiểu Ái, do Ngũ Hán Siêu, Cát Phan Ngõa Tây dẫn binh, người người eo thắt dây thừng, vai đeo cương đao. Giầy rơm dưới chân, ngậm cây trong miệng, lặng lẽ chìm vào trong màn đêm.
Sương mưa mù mịt, đã là giữa đêm, nếu muốn công núi thì rõ ràng là tự tìm cái chết, các lộ quân Man giết bò giết dê, yên tâm uống rượu, nhưng vẫn phái rất nhiều cảnh vệ, tuy nhiên sắc đêm mưa sương mông lung, đầu cuối chẳng thấy động tĩnh quan binh.
Cát Phan Ngõa Tây dẫn theo bảy trăm lang binh ngậm tăm mà tiến. Leo nhanh hiểm trợ nhau mà lên, lấy sắc đêm, sương mưa để che chắn, lặng lẽ đi qua hai vách núi Cửu Ti, trời còn chưa sáng, bảy trăm dũng sĩ đã đến dưới chân Cửu Ti Thành, bọn họ ẩn nấp trong rừng lặng lẽ nghỉ ngơi, chờ đợi thời khắc quy định đến, đồng thời chuẩn bị thêm một số thứ.
Giờ Cửu Ti Thành quả thật trở thành một quả óc chó. Bảy vạn đại quân của Dương Lăng chia thành năm lộ, đã dụ hết toàn bộ quân chủ lực của Man nhân đi, phân bổ ở các cửa ải hiểm yếu, những Man nhân thủ thành ngoài trừ phụ nữ người già và trẻ nhỏ, những dũng sĩ còn lại cũng không còn nhiều.
Trời tờ mờ sáng, thời khắc rạng sáng là lúc mọi người buồn ngủ nhất, bên ngoài lại không có chút động tĩnh nào, quân thủ thành đang ngã nghiêng ngã ngửa muốn yên tâm đi ngủ. Mấy trăm cái móc sắt bay cùng lúc móc lên thành, từng tên lang binh cùng lúc bám bò lên như linh vượn.
Tiếng hò hét giết chốc vang lên, bọn Man tử hoảng loạn nhảy lên. Không biết từ đâu chui ra nhiều kẻ địch như vậy, điều đáng sợ hơn là những người này căn bản không thấy đường, người nào người nấy đều mặc áo hoa văn xanh lá quái dị, trên đầu đội mũ cổ quái, trên mặt còn vẽ những đường vằn giống hết như lúc bái tế cầu phúc thầy trừ tà đóng giả làm thần ếch vậy.
Thần ếch trong lòng người Man có một vị trí vô cùng thần thánh, những Man tử chưa rõ đầu đuôi tình hình không dám đối kháng với chục nghìn quan binh, càng không dám động thủ với thần thánh, đợi khi bọn họ nhìn rõ đám thần linh này cũng phải dùng đao giết người, cũng biết đổ máu tử vong, đợi khi họ lĩnh ngộ được thần linh này mười phần hết tám chín phần là do quan binh đóng giả thì đại thế đã mất, ba trăm Man binh tinh nhuệ còn lại thủ thành bị giết đến tơi bời tan tác, những lão binh già yếu thì tực thì giải tán hết.
Những lang binh này cũng chẳng vội đuổi theo, vừa châm lửa đốt trại, vừa cướp bóc khắp nơi. Những quan binh các phía vây thành đến thời khắc chỉ định thì cùng nhau công kích vào thành, lần này bọn họ không những toàn lực cướp công, hơn nữa trong quân toàn dùng trống đồng lớn của người Man trợ uy. Đại biểu việc trống đồng của chiến thần chi linh đã vang lên trong quân doanh kẻ địch, khiến cho không ít quân Man trở nên lo lắng sợ hãi.
Trước đó quan binh đã học vài câu tiếng Man, lúc này cùng đồng thanh hò hét:
- Gia Cát Võ Hầu tác pháp, thiên thần đã vứt bỏ các ngươi, mau mau bỏ giới xin hàng, Cửu Ti Thành đã bị công phá.
Quay nhìn về phía Cửu Ti Thành, quả nhiên một làn khói nồng nặc xông lên, vốn dĩ là trống đồng thúc giục sĩ khí quân tâm, lúc này lại khiến người ta nghe thấy hốt hoảng tâm hồn:
Người Hán mời được Gia Cát Lượng, Cửu Ti Thành cũng bị phá, trận này làm sao đánh tiếp? Các lộ quân Man không còn nghe theo chỉ huy của tướng Man, vắt giò lên cổ chạy tan tác. Mười cửa ải hiểm yếu, chí ít có tám nơi không công mà tự phá, khắp núi đồi đều là cảnh quan binh đuổi giết và Man binh tháo chạy.
Quân Man trên hai vách núi Cửu Ti chỉ chống chọi được thêm một lúc, trống đồng phía trước vang lên, ánh lửa hậu trại trỗi dậy, những đá tảng lôi mộc được ném xuống cũng dần vơi đi, quan binh rống trống dậy tinh thần, xông qua hai vách Cửu Ti, giết về bổn doanh Cửu Ti Thành.
Man nhân đại bại, quan binh tiến vào Cửu Ti Thành, một mặt phóng hỏa đốt nhà, một mặt xua quân chém giết. A Đại Vương nghe tin cấp báo kinh hoàng khó hiểu, gã mặc chiếc long bào vương miện tự chế, múa may đại đao đích thân soái lĩnh tâm phúc tử sĩ xông ra ngoài đại vương điện nghênh địch, ngặt nỗi người của gã tuy hung hãn, nhưng không thể chịu nỗi quan binh quân Minh như ong chen chúc tới.
Từ rạng sáng giết đến giữa trưa, A Đại Vương đã lui về thủ Tây Quan Khẩu, lúc này trong thành nơi nơi là ánh hỏa, quan binh đốt cả nhà kho Đại Vương, bên trong đó chất đầy lương thực thóc ngô chất cao như núi, lương thực bị cháy, cũng xem như A Đại Vương mời thần Oa nhập thân, đoạt về Cửu Ti Thành, cũng không tài nào kiên trì cố thủ ở đây nữa.
Lúc này vương miện của A Đại Vương không thấy đâu nữa, long bào trên người cũng rách nát thành từng sợi, mắt thấy kho Đại Vương bị lửa thêu hừng hực, A Đại Vương lệ tuôn đầy mặt, đành lĩnh tàn binh bỏ thành tháo chạy, ra khỏi Tây Quan Khẩu, tháo chạy vào trong rừng rậm thâm sâu.
Lúc Dương Lăng và các chủ tướng Nhị vương tử, Lý Sâm đuổi đến Cửu Ti Thành, kho Đại Vương vẫn còn bốc lửa hùng hục, những kẻ còn phản kháng trong thành không nhiều, quan binh đang thu nạp tù binh. Cửu Ti Thành là sào huyệt A Đại Vương chiếm đóng nhiều năm qua, trong Đại Vương điện có không ít vàng bạc vũ khí, đều bị đám quan binh vơ vét lên người. Vì thế tuy là người nào người nấy toàn thân đẫm máu, đại chiến vừa xong, nhưng thân thể tròn trĩnh đi nhiều.
Không ngờ trong Đại điện còn có đồ sứ thượng hạng từ trấn Cảnh Đức, có thể thấy rằng A Đại Vương tuy là Man nhân, trái lại y rất biết thưởng thức, biết xem hàng, chỉ đáng tiếc gã Man nhân biết coi hàng, đám quan binh kia thì không, những thứ đồ sứ chân quý mỏng manh như giấy, màu sắc như ngọc kia, phần lớn đều bị đám loạn binh ném để bể nát cả.
Dương Lăng đứng trên đại điện đã bị cướp đến trống trơn, hạ lệnh nói:
- A Đại A Nhị Phương Tam, chẳng bắt được tên nào, lập tức lệnh quan binh lục soát truy kích, các trạm kiểm soát ở những nơi trọng yếu phải rà soát thật cẩn thận, không để tên nào chạy thoát.
Chu Nhượng Cận theo sát sau lưng nói:
- Dẫn tướng Man của Cửu Ti Thành bắt được lên đây, lập tức tiến hành thẩm tra. Nhất định phải tìm ra tung tích của Vương huynh ta.
Dương Lăng thầm kêu lên một tiếng hổ thẹn: "Chuyện vụn vảnh này ta lại quên", thế là vội gọi Ngũ Hán Siêu, Tống Tiểu Ái đi dẫn người đến. Thông qua một phen tra khảo, Ngũ Hán Siêu dẫn theo một chuỗi dài tù binh vào điện. Dương Lăng vốn muốn ngồi xuống tra hỏi, nhưng quay đầu nhìn lại, vị A Đại Vương học làm Hoàng đế cũng học đầy đủ thật. Trong Đại Vương điện ngoài trừ thạch đầu làm ghế Đại Vương ra, một cái bàn nhỏ cũng tìm chẳng ra.
Nhìn kỹ cái ghế dựa bằng đá kia, bên trên còn đầy dấu nậy, chắc hẳn bên trên nó có cẩn đá quý châu báu, bị bọn loạn binh cướp mất rồi, nhưng dù sao trên ghế cũng khắc hình con rồng mà, tuy nói thủ công điêu khắc hơi tệ, tướng mạo rồng thạch hơi sầm, Dương Lăng cũng chẳng muốn để người ta có cớ nói, đành phải đứng trong điện, gọi người dùng tiếng Man tra hỏi.
Các tướng Man nghe thấy đều im thin thít, Dương Lăng sai người hỏi tới lui hai lần. Chu Nhượng Cận điên lên, hét:
- Các ngươi còn không mau khai ra tung tích của Vương huynh ta, ta sẽ lôi hết các ngươi ra chém đầu!
Có một Man nhân tuổi tác tương đối cao ấp a ấp úng nói được vài câu, sau đó nhắm mắt khinh miệt quay đầu đi, Dương Lăng hỏi:
- Hắn nói cái gì?
Sĩ binh kia hiểu tiếng Man miệng mồm ấp úng nửa ngày trời, mới nhát gừng nói:
- Ông ta….ông ta nói triều đình nhân cơ hội diệt bọn họ, mới mượn cớ công núi, Thế tử đã sớm được người Hán của Gia Cát Lượng cứu đi mất rồi. Vậy mà vẫn mạnh miệng nói là nằm trong tay bọn họ.
- Cái gì?
Dương Lăng và Chu Nhượng Cận cùng biến sắc. Đồng loạt tiến lên trước, làm cho tên tiểu binh ngã về sau hai bước:
- Bị người ta cứu đi rồi? Lúc nào?
Sĩ binh đó lại dùng tiếng Man hỏi tướng Man vài câu. Truy vấn uy bức một phen, tướng Man mới trả lời:
- Tin tức Đô Đô Trại bị công phá truyền đến, A Đại Vương liền muốn dùng thế tử để đổi lấy sự an toàn của Cửu Ti Thành, nhưng…người Hán các ngươi đã cứu hắn ra, sau đó lại phái người lên núi kiếm bọn ta đòi người, đây rõ ràng là lấy cớ để tiêu diệt bọn ta mà?
Dương Lăng và Chu Nhượng Cận nghe xong ngơ ngác nhìn nhau, nửa ngày trời, Chu Nhượng Cận mới lắp bắp nói:
- Đại…đại nhân, có thật ngài đã cứu vương huynh ta?
- Không có!
Dương Lăng cảm thấy khó hiểu, chợt lại liếc thấy Tống Tiểu Ái, cô gái nho này vẻ mặt đầy sùng bái, Dương Lăng không khỏi vừa thấy bực vừa thấy buồn cười, hắn lập tức dậm chân nói:
- Nhìn cái gì mà nhìn? Ta cũng đâu biết bay, làm sao mò được vào Cửu Ti Thành mà cứu người hả?
- Nhưng…Từ khi Đô Đô Trại bị tiêu diệt, đến thời điểm này đã gần được một tháng rồi, nếu Vương huynh được cứu, tại sao không tìm chúng ta? Tại sao phía quan phủ không có chút tin tức gì? Đại nhân, người nhất định phải giúp ta tìm ra Vương huynh đấy.
Chu Nhượng Cận vừa mừng vừa sốt ruột nói.
Dương Lăng gật gật đầu, bất chợt hắnnhớ ra vừa rồi dậm chân xuống đất có điều lạ thường, hắn cúi đầu nhìn nhìn, thoắt cái cúi người nằm xuống, mọi người hiếu kỳ nhìn động thái của Dương Lăng, chỉ thấy Dương Lăng cậy lên một đống bùi nhùi và sứ vụn, tỉ mỉ quan sát một lúc, đột nhiên kinh sợ kêu lên:
- Gạch vàng! Đây là gạch vàng.
Một tên sĩ binh bên cạnh nghe xong tức thì đau khổ nhắm tịt mắt lại: Hai cái vòng bạc đang ôm trong người thì đáng giá bao nhiêu tiền chứ? Biết đó là gạch vàng ta đã cậy một mảnh lên giấu đi, còn phải làm lính nữa sao?
- Gạch vàng?
Tống Tiểu Ái cũng hiếu kỳ ngồi xuống, rút đao ra, dùng cán đao gõ gõ mặt đất, nói:
- Không phải vàng chẳng phải gỗ ….không giống vàng, đại nhân.
Dương Lăng cậy lấy viên gạch to lớn trơn bóng nhẵn mịn, hai mắt xuất thần lẩm bẩm:
- Không sai, đây là gạch vàng! Là ngự gạch chỉ có Kim Loan điện mới được trang bị. Thì ra nơi đây, thì ra nơi đây…thì ra là vậy…gã A Đại Vương này cũng học hỏi khá đầy đủ đấy chứ.
Mọi người chẳng ai biết hắn đang lẩm bẩm gì, nhưng đều biết được đây là gạch vàng, dám dùng ngự gạch của hoàng đế, gã A Đại Vương này cũng thật xem bản thân là Hoàng đế thật thụ rồi.
Gã sĩ binh thống khổ khó hiểu kia cũng nhanh chóng bay từ địa ngục lên lại thiên đàng, gã mãn nguyện ôm hai chiếc vòng bạc dày cộm trong lòng, thở phào nói:
- Thế này là đủ…tốt thật!
Thì ra những viên gạch này là do A Đại Vương muốn làm hoàng đế nên đã bỏ ra số vàng lớn để mua, nói như vậy Thục Hiền Vương tạo phản, đúng là giả dối hư ảo? Cũng phải, người của Xưởng Vệ nếu nghe ngóng được phía Tứ Xuyên có người mua bán gạch vàng, ý niệm đầu tiên hiển nhiên là Thục Vương tạo phản, ai mà ngờ được đó là do tù trưởng Đô Chưởng Man mua chứ? Giờ thì tốt rồi, giải quyết xong vấn đề, cũng xem như có thể về Kinh báo cáo kết quả, để hoàng thượng yên tâm.
Dương Lăng nghĩ đến đây, trong lòng vui mừng khôn xiết.
Nhưng hắn đứng dậy ngẩng đầu nhìn, các quan trong điện hiển nhiên không ai quan tâm đến vấn đề gạch vàng:
Tự chế đại kiệu, ô vàng áo xà, tự mình xưng vương, những điều này đã là tạo phản rồi, cộng thêm việc thu mua gạch vàng thì có là gì? Vấn đề là: Thế tử Thục vương đang ở đâu kìa?
Lúc này Dương Lăng mới nhớ ra vấn đề mọi người đang quan tâm, hắn ngượng nghịu cười một cái, đang muốn căn dặn người đi lục soát toàn thành, bất chợt Thôi Quý áp giải vài người Hán xông vào trong điện, lớn tiếng nói:
- Khởi bẩm đại nhân, những người này là sơn tặc lưu dân sống dựa vào người Man, bị bọn ta bắt được thì nói là có đại sự vô cùng quan trọng cần khởi bẩm Khâm sai đại nhân.
Gã nói xong rồi thì nhấc chân lên đá vào mông một tên, mắng chửi nói:
- Tên tiểu tử này còn con mẹ nó uy hiếp ta, nói là chậm trễ đại sự ta đảm đương không nổi, ta dắt bọn chúng đến cho đại nhân xem, nếu không có việc gì quan trọng, chắc chắn sẽ chặt hết mấy cái đầu rùa này cho xem.
Dương Lăng nhìn mấy người Hán đó, Y phục mặc trên người vừa giống Hán vừa giống Man, nhưng diện mạo ngũ quan rõ ràng là người Hán, trong lòng hắn chợt động, liền tiến lên trước hỏi:
- Ta là Khâm sai Dương Lăng mà các ngươi muốn gặp, các ngươi có chuyện gì cần bẩm báo ta?
Mấy tên bị bắt nhìn nhìn trên dưới người Dương Lăng, lại nhìn đám quan trái phải vây quanh. Lúc này mới tin, tên dẫn đầu vội vàng quỳ gối khấu đầu nói:
- Khâm sai đại nhân tại thượng, thảo dân Vương Nhị Cẩu Nhi, mấy người chúng tôi được Thục Tiểu Vương gia điểm hóa, quyết tâm đầu quân triều đình, cho nên âm thầm cứu Tiểu Vương gia ra ngoài, đưa ngài đi ẩn nấp, đáng tiếc Man nhân canh giữ kỹ càng, mãi vẫn không thoát ra được, chúng tôi…
Gã còn chưa nói xong, các quan viên đã cùng vây quanh. Chu Nhượng Cận xông lên trước nhất, vẻ mặt ửng đỏ, kích động quát:
- Ngươi nói cái gì? Vương huynh ta được các ngươi cứu rồi sao? Huynh ấy đâu, mau dẫn ta đi gặp huynh ấy!
Vương Nhị Cẩu Nhi không biết người này là ai, nhưng dù sao ai trong nhà này nói thì gã cũng phải nghe, vội vàng đáp lời, dẫn mọi người ra khỏi đại vương điện, rẽ ngang rẽ dọc vòng đến nơi bọn họ trú ngụ.
Dọc đường nghe mấy người này nói, mọi người cũng sơ lược hiểu được tình hình. Thì ra Thế tử Chu Nhượng Hủ bị A Đại Vương giả ý mời gọi y đàm phán, dụ y vào trong núi bắt làm con tin, trái lại cũng khá xem trọng vị phạm nhân này, hy vọng vơ vét được một món hời lớn từ trên người Thế tử. Ông ta cảm thấy những người coi ngục đều là người Man không biết tiếng Hán, cho nên cố tình tìm vài người Hán phạm án chạy lên núi đi hầu hạ người.
Chiếu theo cách nói của bọn họ, Tiểu vương gia đó là người tài học uyên thâm, rất biết giáo hóa, thường xuyên nói đạo làm người, đối nhân xử thế cho bọn họ nghe, khiến bọn họ xúc động, đợi khi Lăng Tiêu Sơn thất thủ, Đô Đô Trại lại thất thủ, mấy người này lo sợ, cảm thấy Tiểu Vương Gia nói rất có đạo lý, thế là được tiểu Vương gia điểm hóa, lấy rượu chuốc say Man binh canh ngục, cứu thoát y ra, sau đó giết chết người Man đó, thi thể cũng ném đi.
Man nhân tuy rằng kính cẩn nghe theo, nhưng không biết nói lời a dua xu nịnh, những người này miệng mồm lò xo, thường xuyên tâng bốc A Đại Vương như thần tiên, cho nên rất ư tín nhiệm bọn họ. Thông qua một phen quỷ biện của họ, A Đại Vương không ngờ chẳng chút nghi ngờ họ, huống hồ từng phái người lục soát nơi ở bọn họ, cũng đích thị chẳng có gì đáng ngờ.
Vừa hay tin Dương Lăng là Gia Cát Khổng Minh hạ phàm đã lan truyền từ miệng người này sang người kia rồi truyền đến trên núi, hai bên đối chiếu, mấy người Hán này cũng nhân cơ hội châm dầu vào lửa, chuyện Dương Khổng Minh sử dụng ngũ quỷ vận chuyển đại pháp cứu thoát thế tử Thục Vương như ván đã đóng thuyền.
Thấy chẳng ai hoài nghi nữa, mấy người này sợ Tiểu Vương gia ẩn nấp trên núi bị dã thú ăn thịt, vội vàng lại lén lút đón về giấu trong hầm nhà.
Đám người Dương Lăng vừa nghe, vừa đi theo họ vội vàng bước đi, đến nơi, mấy tên người Hán vội xốc tấm da thú hôi tanh lên, kéo tấm ván gỗ rồi gọi to:
- Tiểu vương gia, Khâm sai đại nhân bọn ta đến đón người, người mau ra ngoài đi.
Một lúc sau, cái thang chuyển động, một gương mặt trắng bệch lộ diện từ trong động, nheo mắt nhìn mọi người. Chu Nhượng Cận nhìn kỹ một cái, vui mừng hô lên:
- Vương huynh, vương huynh, quả nhiên huynh còn sống, trời có mắt thấy!
Người đó vẻ mặt thanh tú, cũng có bảy phần giống Chu Nhượng Cận, chỉ có đều khí sắc hơi kém, lúc này y cũng nhìn rõ được Chu Nhượng Cận, không kiềm được vui sướng thốt lên:
- Cẩn đệ, mọi người quả thật đã đến rồi.
Chu Nhượng Hủ ùa ra khỏi động, hai huynh đệ ôm chầm lấy nhau, không khỏi nước mắt ràn rụa.
- Nghe nói Thế tử đã nhiều mặt cảm hóa những người Hán ăn nhờ Man tặc, khiến chúng giác ngộ, xả thân cứu người, không biết Thế tử rốt cục đã dùng cách nào để điểm hóa đám tặc nhân này buông bỏ đồ đao, lập địa thành phật?
Mấy người cùng đi bộ xuống núi, Dương Lăng vừa đi vừa nói chuyện với Chu Nhượng Hủ đi bên cạnh.
Đã là ngày thứ ba rồi, A Đại Vương chạy đến sau Ngọc Bình Đôn thì bị lang binh bắt giữ. Để đề phòng vạn nhất Dương Lăng đã không áp giải phạm nhân về Kinh, trực tiếp chém đầu trình lên Kinh Thành. Phương Tam chạy đến Mẫu Trư trại cố chống đỡ, bị quan binh dùng tên bắn chết, tam hùng tướng Đô Chưởng Man từ nay chỉ còn lại A Nhị là không rõ tung tích.
Dương Lăng thiết lập Phủ vệ binh ở Cửu Ti Thành, quan binh và tù nhân dần rời khỏi núi, bọn họ là đám người ra khỏi núi sau cùng.
Thế tử đã thay nho phục, lúc này không chỉ diện mạo, tinh thần, khí chất cũng giống hệt như Chu Nhượng Cận, chỉ là nhìn có vẻ già dặn hơn một chút. Tuổi tác tuy không lớn, nhưng cũng có nét già dặn chín chắn, hoặc giả là do trưởng tử trong nhà, thường xuyên thay Thục Vương xử lý công vụ nên hình thành tật này chăng, cũng vì vậy mà Dương Lăng không hỏi gì y, cho đến khi cùng đi xuống núi, tâm trạng mọi người rất thư thái, Dương Lăng mới giả vờ vô ý hỏi câu hỏi luôn hiếu kỳ trong đầu.
Chu Nhượng Hủ vẫn cái vẻ mặt nghiêm túc ít cười nói. Y nhẹ nhàng vuốt cằm, thản nhiên nói:
- Cũng chẳng có gì, kể ra cũng phải cảm tạ Khâm sai đại nhân, cái ta dùng để điểm hóa mấy tên sơn tặc, không gì hơn là tiền vàng, mỹ nữ, công danh. Vốn dĩ bọn họ còn có chút do dự, nhưng sau khi đại nhân công hạ Đô Đô Trại, ít nhất ta lại có thêm một sinh mạng, thế là bọn họ đại triệt đại ngộ thôi.
Dương Lăng ngạc nhiên, tức thì cất tiếng cười to:
- Thì ra Thục vương thế tử, cũng là người dễ gần như vậy.
Chuyện Tự Châu đã xong, một trong những người cuối cùng của tam hùng tướng Đô Chưởng Man là A Nhị chạy đến Đại Bàn khẩu Quý Châu, cũng bị thủ quân bắt lấy, trảm tại chỗ, lấy thủ cấp trình lên, phản loạn của Đô Chưởng Man bị Dương Lăng lấy thế lôi đình vạn quân triệt để hóa giải, từ đó cũng khó lòng hình thành lại quy mô tạo phản.
Các bộ phận quân đội luận công ban thưởng, lần lượt trở về nơi đóng quân. Triều đình cũng hạ ý chỉ, chính thức bổ nhiệm Yên Cao Tài làm Tự Châu Lục huyện Tuần phủ sứ, tiết chế quân chính luật phú học chư hạng sự vụ địa phương. Dương Lăng hứa hẹn với y: Trong thời gian ba năm, để Yên Cao Tài thống trị một phương, đợi sau ba năm hết nhiệm kỳ, sẽ phái quan viên thế chức cho y, đề cử y vào Kinh làm quan.
Dương Lăng và Chu Nhượng Hủ, Chu Nhượng Cận cùng Tống Tiểu Ái quay về Thành Đô, Yên Tuần Phủ tiễn đến một chỗ núi cao, Dương Lăng dừng ngựa quay đầu nói:
- Yên đại nhân, tiễn quân nghìn dặm, cuối cùng cũng phải chia tay. Sự vụ Tự Châu bận rộn, nơi nơi cần đại nhân phí sức lao tâm, mời ngài dừng bước!
Yên Cao Tài mỉm cười vái chào, thoải mái nói:
- Dạ vâng, ty chức cung tiễn Khâm sai đại nhân, Thế Tử, Nhị Vương Tử, Tống tổng Binh và Chư vị đại nhân.
Dương Lăng khẽ mỉm cười, quay đầu quơ roi ngựa quát:
- Cha!
Người ngựa đại đội rời đi xa, quay đầu nhìn, Yên Tuần Phủ vẫn đứng trên đồi cao đưa tiễn.
Đang đi về phía trước, Tống Tiểu Ái đột ngột chỉ về vách núi bóng loáng đối diện sông, vui mừng nói:
- Đại nhân, ngài mau nhìn kìa!
Dương Lăng ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy một mặt đá xanh như gương, có một chữ đỏ to đùng, hành thư mãnh mẽ có lực.
Bình Man Bi
Minh Chính Đức nguyên niên, tháng mười đã đến, Khâm Sai Tuần Thú Đại Thần Dương Lăng, Thục Vương Tử Chu Nhượng Cận, Đô Chỉ Huy Sử Lý Sâm, Bố Chính Sử Tham Chính…Bặc Vương Sơn, Đồng La Lĩnh, Lăng Tiêu Thành, Đô Đô Trại liên tiếp chiến tranh, thế như chẻ tre, đại quân hội sư tại Cửu Ti Thành.
Đương thiên binh đại tiệp, vi kinh lược vạn thế chi hùng đồ dã.
Duy thì phong quyển trường vân, nhật khai âm cốc.
Tương dữ thù thương tuyệt đỉnh, dược kiếm huyền nham;
phủ thị vạn táo tinh đồn, man sào cúc vi tiêu thổ;
vọng tây nam chư di ách tắc, tận tại mục trung.
Thành thiên cổ kỳ quan, thị dụng lặc thạch, dĩ chí bất hủ.
Tự Châu Tuần Phủ Sử Yên Cao Tài ngâm thơ ký sự, lưu niên thiên cổ.
Đãng khấu thần binh xuất tiễu bích, đồng lai bễ nghễ tiếp câu trần.
Phù tang nhật xuất càn khôn tích, ngọc lũy vân đôi hổ báo đồn.
Ốc thổ dĩ quy thần vũ cống, trung hưng trọng thác quỷ phương tân.
Hoan hài tụy lực chư văn vũ, thắng quân hồi thì vạn hác xuân.
Đăng bởi | Mr. Robot |
Phiên bản | Dịch |
Thời gian | |
Cập nhật | Cẩuca |
Lượt thích | 5 |
Lượt đọc | 253 |